Bước tới nội dung

Montana (lớp thiết giáp hạm)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một mô hình trình bày lớp Montana vào năm 1944
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Lớp thiết giáp hạm Montana
Bên khai thác Hoa Kỳ Hải quân Hoa Kỳ
Lớp trước Iowa
Lớp sau không
Chế tạo không
Dự tính 5
Hoàn thành không
Hủy bỏ
  • USS Montana (BB-67)
  • USS Ohio (BB-68)
  • USS Maine (BB-69)
  • USS New Hampshire (BB-70)
  • USS Louisiana (BB-71)
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Thiết giáp hạm
Trọng tải choán nước
  • 65.000 tấn (tiêu chuẩn);[1]
  • 70.965 tấn (đầy tải)[2][3][A 1]
Chiều dài 280,6 m (920 ft 6 in)[2]
Sườn ngang 36,9 m (121 ft) [2]
Mớn nước 11 m (36 ft 1 in)[2]
Động cơ đẩy
  • 4 × turbine hơi nước hộp số Westinghouse
  • 8 × nồi hơi Babcock & Wilcox
  • 4 × trục;
  • công suất 172.000 mã lực (128,2 MW)[2]
Tốc độ 52 km/h (28 knot) tối đa[2][4]
Tầm xa
  • 27.800 km ở tốc độ 27,8 km/h
  • (15.000 hải lý ở tốc độ 15 knot) [1]
Thủy thủ đoàn 2.355[2]
Thủy thủ đoàn tối đa 2.789 (soái hạm)[2]
Vũ khí
Bọc giáp
  • Đai giáp chính: 259 - 409 mm (10,2 - 16,1 inch) trên 25 mm (1 inch) thép tôi STS, nghiêng 19°
  • Đai giáp bên dưới: 25-183 mm (1-7,2 inch), nghiêng 10°[1]
  • Vách ngăn: 457 mm (18 inch) phía trước, 387 mm (15,25 inch) phía sau[1]
  • Bệ tháp pháo: 457-541 mm (18-21,3 inch)[1]
  • Tháp pháo: cho đến 572 mm (22,5 inch)
  • Sàn tàu: cho đến 152 mm (6 inch)
Máy bay mang theo 3–4 × thủy phi cơ Vought OS2U Kingfisher/Curtiss SC Seahawk
Hệ thống phóng máy bay 2 × máy phóng phía đuôi tàu[3]

Lớp thiết giáp hạm Montana là một lớp thiết giáp hạm được vạch kế hoạch cho Hải quân Hoa Kỳ nhằm nối tiếp lớp Iowa; sẽ chậm hơn nhưng lớn hơn, có vỏ giáp tốt hơn và hỏa lực vượt trội. Năm chiếc đã được chấp thuận để chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhưng những thay đổi trong thứ tự ưu tiên chế tạo đã đưa đến việc hủy bỏ chúng để chế tạo lớp tàu sân bay Essex trước khi có bất kỳ lườn của lớp Montana nào được đặt.

Với một dàn hỏa lực dự định bao gồm 12 khẩu pháo 406 mm (16 inch) và một khả năng phòng không lớn hơn nhiều so với lớp Iowa dẫn trước, cũng như là một đai giáp dày hơn, Montana sẽ là những thiết giáp hạm lớn nhất, được bảo vệ tốt nhất và được vũ trang mạnh nhất mà Hoa Kỳ từng đưa ra hoạt động. Chúng sẽ là lớp thiết giáp hạm duy nhất của Hải quân Mỹ có thể đối chọi với lớp Yamato của Hải quân Nhật về vỏ giáp, vũ khí và trọng lượng rẽ nước.[5]

Việc thiết kế sơ thảo cho lớp Montana đã bắt đầu trước khi Mỹ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, và hai chiếc đầu tiên đã được Quốc hội chấp thuận vào năm 1939 khi thông qua Đạo luật Vinson thứ hai. Việc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng đã trì hoãn việc chế tạo lớp Montana; rồi sự thành công của tàu sân bay trong trận chiến biển Coral, và ở một tầm cỡ rộng lớn hơn trong trận Midway, đã hạ thấp giá trị của thiết giáp hạm. Vì vậy, Hải quân Mỹ chọn hủy bỏ lớp Montana để ưu tiên đóng các tàu sân bay, tàu đổ bộ và tàu chống tàu ngầm đang rất cần đến; cho dù việc đặt hàng của lớp Iowa được giữ lại vì chúng đủ nhanh để hộ tống lớp tàu sân bay Essex mới.[6] Montana là lớp thiết giáp hạm cuối cùng được Hải quân Mỹ thiết kế nhưng chưa từng được đặt lườn; bốn chiếc Iowa đã hoàn tất là những chiếc cuối cùng được đưa vào hoạt động.[A 2]

Lịch sử thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Kế hoạch nghiên cứu năm 1940

Khi hoàn cảnh chính trị tại Châu Âu và Châu Á đang xấu đi trong những năm trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Carl Vinson, Chủ tịch Ủy ban Hải quân của Hạ viện Mỹ đã tiến hành một Kế hoạch Hải quân Vinson, nhằm mục đích đưa Hải quân Hoa Kỳ lên một sức chiến đấu đáng kể sau những cắt giảm do suy thoái cùng những hiệp ước giới hạn hải quân trong những năm 1930.[7][8] Trong một phần của kế hoạch chung, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Vinson thứ hai vào năm 1938, dọn đường cho việc chế tạo bốn thiết giáp hạm nhanh thuộc lớp South Dakota (mang ký hiệu lườn từ BB-57 đến BB-60) và hai chiếc đầu tiên của lớp Iowa (mang ký hiệu lườn BB-61 và BB-62).[9] Thêm bốn thiết giáp hạm mang ký hiệu lườn từ BB-63 đến BB-66 được chấp thuận cho chế tạo vào năm 1940,[9] trong đó hai chiếc cuối cùng được dự định sẽ là những chiếc đầu tiên của lớp Montana.[10] Đến năm 1942, điều rõ ràng đối với giới chỉ huy Hải quân cao cấp là họ cần thiết giáp nhanh càng nhiều càng tốt, nên các ký hiệu lườn BB-65 và BB-66 được dành cho các thiết giáp hạm nhanh IllinoisKentucky.[11]

Lo lắng về việc lớp thiết giáp hạm Yamato của Nhật Bản đang được chế tạo, Hải quân Mỹ bắt đầu những công việc sơ thảo lớp "siêu thiết giáp hạm" tải trọng 58.000 ngay từ năm 1938.[9] Với mười hai khẩu pháo 406 mm (16 inch), lớp tàu mới này được đặt tên Montana và được Quốc hội Hoa Kỳ dọn đường cho chế tạo khi thông qua Đạo luật Hải quân hai đại dương vào năm 1940; và ngân quỹ cho những con tàu mới được chấp thuận vào năm 1941. Những con tàu này, những thiết giáp hạm cuối cùng mà Hải quân Mỹ đặt hàng, mang các ký hiệu lườn từ BB-67 đến BB-71.[11]

Việc hoàn tất lớp Montana cùng với hai thiết giáp hạm cuối cùng của lớp Iowa được dự tính sẽ cho phép Hải quân Mỹ có một ưu thế về hải quân đáng kể so với mọi quốc gia khác, hoặc khả dĩ kết hợp các quốc gia khác, với tổng cộng 17 thiết giáp hạm mới vào cuối những năm 1940.[A 3] Những chiếc Montana cũng là những thiết giáp hạm Hoa Kỳ duy nhất tiếp cận gần đến những chiếc YamatoMusashi của Nhật Bản về kích cỡ và hỏa lực.[5]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Những kế hoạch ban đầu cho lớp thiết giáp hạm Montana được khởi sự từ năm 1939, vào lúc mà tàu sân bay được cho là kém quan trọng hơn so với thiết giáp hạm. Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu thiết kế một kiểu thiết giáp hạm trọng lượng 65.000 tấn Anh (66.000 t) để đối phó với mối đe dọa của lớp thiết giáp hạm Yamato của Hải quân Nhật Bản. Cho dù Hải quân chỉ biết chút ít về lớp Yamato,[A 4] những thiết giáp hạm mới của Nhật được đồn đại rằng sẽ có dàn pháo chính 16 inch (406 mm).[A 5] Thoạt tiên thiết kế được đề ra với trọng lượng 45.000 tấn Anh (46.000 t), nhưng sau khi đánh giá sơ bộ, Ủy ban Tư vấn Thiết kế Thiết giáp hạm đã tăng trọng lượng chiếc thiết giáp hạm được đề nghị lên 58.000 tấn Anh (59.000 t).[5]

Vào lúc đó, nhóm thiết kế đề ra một sơ thảo cho lớp Montana, vốn sẽ không bị giới hạn về chiều rộng mạn tàu bởi kênh đào Panama, mạnh hơn 25% trong cả khía cạnh tấn công lẫn phòng thủ khi so sánh với mọi thiết giáp hạm khác đã hoàn tất hay đang được đóng, và có khả năng chịu đựng đạn pháo "siêu nặng" 2.700 lb (1.200 kg) bắn ra bởi các thiết giáp hạm Mỹ trang bị pháo 16 inch (406 mm)/45 cal Mark 6 hay pháo 16 inch (406 mm)/50 cal Mark 7. Cho dù không bị ràng buộc về kích cỡ bởi kênh đào Panama, chiều dài và chiều cao của lớp Montana bị giới hạn bởi một trong những xưởng tàu sẽ đóng chúng: Xưởng hải quân Brooklyn không thể đóng một con tàu với trọng lượng 58.000 tấn Anh (59.000 t), và những tàu đóng xong phải đủ thấp để băng qua bên dưới chiều cao tĩnh không của cầu Brooklyn khi thủy triều thấp.[12]

Sau những tranh luận trong nội bộ nhóm thiết kế về việc lớp Montana sẽ nhanh, đạt đến tốc độ 33 kn (38 mph; 61 km/h) của lớp Iowa, hay sẽ tăng cường pháo và vỏ giáp, ưu tiên về hỏa lực đã được chọn thay vì tốc độ.[5] Khi cho lớp Montana quay trở lại tốc độ tối đa 28 kn (32 mph; 52 km/h) chậm hơn của các lớp North CarolinaSouth Dakota, những nhà thiết kế hải quân đã có thể tăng cường lớp vỏ giáp của Montana, cho phép chúng chịu đựng được hỏa lực đối phương với cỡ đạn pháo tương đương. Tuy nhiên nó lại giới hạn khả năng hộ tống và bảo vệ các tàu sân bay đặt căn cứ tại Thái Bình Dương,[5][9]Montana chỉ được trang bị tám nồi hơi Babcock & Wilcox vốn chỉ cho phép chúng di chuyển ở tốc độ khoảng 27–28 kn (31–32 mph; 50–52 km/h).[A 6]

Số phận

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ thiết kế lớp thiết giáp hạm Montana

Đến tháng 1 năm 1941, các nhà thiết kế đã đạt đến giới hạn 58.000 tấn Anh (59.000 t), và tập trung những nỗ lực vào việc gia tăng trọng lượng choán nước để tăng cường vỏ giáp và hỏa lực của con tàu. Cùng lúc đó, họ quyết định áp dụng tăng thêm đôi chút chiều dài và giảm công suất để sắp xếp tốt hơn hệ thống động lực cũng như cải tiến các khoang bên trong, và lựa chọn dàn pháo hạng hai bao gồm nhiều tháp pháo 5 inch (127 mm)/54 caliber nòng đôi thay vì kiểu pháo 5 inch (127 mm)/38 caliber sử dụng trên lớp Iowa. Đến lúc này, thiết kế thuần túy của lớp Montana phần nào tương đồng như của lớp Iowa, khi chúng được trang bị cùng cỡ nòng pháo chính và pháo hạng hai; tuy nhiên Montana có vỏ giáp dày hơn, có thêm ba khẩu pháo chính, và dài hơn 22 ft (6,7 m) cùng rộng hơn 13 ft (4,0 m) so với lớp Iowa.[5]

Thiết kế của lớp Montana được thông qua vào tháng 4 năm 1942; việc chế tạo được Quốc hội Hoa Kỳ phê duyệt và kế hoạch hoàn tất được ước lượng khoảng từ 1 tháng 7 đến 1 tháng 11 năm 1945. Hải quân đặt hàng các con tàu vào tháng 5 năm 1942, nhưng việc chế tạo lớp Montana bị tạm dừng vì các xưởng tàu dự định chế tạo chúng đang chế tạo các thiết giáp hạm lớp Iowa và tàu sân bay lớp Essex. Cả hai kiểu tàu này đang có độ ưu tiên cao: Iowa có thể bảo vệ bảo vệ những chiếc lớp Essex nhờ dàn hỏa lực phòng không 20 mm và 40 mm và đủ nhanh để theo kịp các tàu sân bay, và bản thân Essex đang cần thiết để chiếm ưu thế trên không bên trên các đảo tại Thái Bình Dương và đánh chặn các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Vì vậy toàn bộ việc chế tạo lớp Montana bị tạm dừng vào tháng 5 năm 1942, trước khi có bất kỳ chiếc nào được đặt lườn; và đến tháng 7 năm 1943 thì việc chế tạo lớp Montana bị hủy bỏ do kết quả của trận Midway, khi xu hướng của hải chiến chuyển đổi từ đối đầu hạm tàu nổi sang việc chiếm ưu thế trên không, nghĩa là chuyển ưu tiên từ thiết giáp hạm sang tàu sân bay.[5][9]

Những chiếc trong lớp

[sửa | sửa mã nguồn]
Mô hình lớp Montana vào năm 1941

Năm chiếc thuộc lớp Montana được chấp thuận chế tạo vào ngày 19 tháng 7 năm 1940, nhưng chúng bị dừng không thời hạn cho đến khi bị hủy bỏ vào ngày 21 tháng 7 năm 1943. Các con tàu dự định đóng tại các Xưởng hải quân New York, PhiladelphiaNorfolk.

USS Montana (BB-67)

[sửa | sửa mã nguồn]

Montana dự định là chiếc thiết giáp hạm dẫn đầu của lớp tàu. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 41, và được phân cho Xưởng hải quân Philadelphia. Cả chiếc thiết giáp hạm trước đó BB-51 lẫn BB-67 đều bị hủy bỏ, nên Montana là một trong những tiểu bang Hoa Kỳ chưa từng có một thiết giáp hạm với ký hiệu lườn "BB" được hoàn tất được đặt theo tên.[13][14][A 7]

USS Ohio (BB-68)

[sửa | sửa mã nguồn]

Ohio dự định là chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp Montana. Nó được đặt tên nhằm vinh danh tiểu bang thứ 17, và được phân cho Xưởng hải quân Philadelphia để chế tạo. Ohio sẽ là chiếc tàu chiến thứ tư mang cái tên này nếu như nó được nhập biên chế.[15][16]

USS Maine (BB-69)

[sửa | sửa mã nguồn]

Maine dự định là chiếc thiết giáp hạm thứ ba trong lớp Montana, Nó được đặt tên nhằm vinh danh tiểu bang thứ 23, và được phân cho Xưởng hải quân New York. Maine sẽ là chiếc tàu chiến thứ ba mang cái tên này nếu như nó được nhập biên chế.[17][18]

USS New Hampshire (BB-70)

[sửa | sửa mã nguồn]

New Hampshire dự định là chiếc thiết giáp hạm thứ tư trong lớp Montana, Nó được đặt tên nhằm vinh danh tiểu bang thứ chín, và được phân cho Xưởng hải quân New York. New Hampshire sẽ là chiếc tàu chiến thứ ba mang cái tên này nếu như nó được nhập biên chế.[19][20]

USS Louisiana (BB-71)

[sửa | sửa mã nguồn]

Louisiana dự định là chiếc thiết giáp hạm thứ năm và là chiếc cuối cùng của lớp Montana. Nó được đặt tên nhằm vinh danh tiểu bang thứ 18 và được phân cho Xưởng hải quân Norfolk tại Portsmouth, Virginia. Louisiana sẽ là chiếc tàu chiến thứ ba mang cái tên này nếu như nó được nhập biên chế.[21][22] Theo khía cạnh số liệu lườn, Louisiana có vinh dự là chiếc thiết giáp hạm Hoa Kỳ cuối cùng được chấp thuận chế tạo.[A 8][A 9]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Chúng sẽ trở thành những tàu chiến nặng nhất của Hải quân Mỹ vào lúc đưa vào hoạt động; và cũng sẽ là lớp tàu chiến có trọng lượng rẽ nước lớn nhất cho đến khi đưa vào hoạt động lớp tàu sân bay Forrestal nặng 79.300 tấn khi đầy tải. “CV-59 Forrestal class”. Military Analysis Network. Federation of American Scientists. ngày 6 tháng 3 năm 1999. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2007.
  2. ^ Trên lý thuyết, Hải quân Mỹ có thể tái tục việc chế tạo thiết giáp hạm bằng cách đóng những chiếc thuộc lớp Montana, nhưng chi phí chế tạo, bảo trì và sự mong manh của thiết giáp hạm trong chiến tranh hiện đại làm cho đây không phải là một lựa chọn hấp dẫn.Government Accountability Office (ngày 19 tháng 11 năm 2004). “Information on Options for Naval Surface Fire Support” (PDF). GAO report number GAO-05-39R. Bản gốc (pdf) lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2007.
  3. ^ 17 thiết giáp hạm này được chấp thuận cho chế tạo sau khi các thỏa thuận của Hiệp ước Hải quân London thứ hai hết hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1937 (Johnston, Ian; McAuley, Rob (2002). The Battleships. London: Channel 4 Books (an imprint of Pan Macmillian, LTD). tr. 122. ISBN 0752261886.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)). Chúng bao gồm North CarolinaWashington thuộc lớp North Carolina; South Dakota, Indiana, MassachusettsAlabama thuộc lớp South Dakota; Iowa, New Jersey, Missouri, Wisconsin, IllinoisKentucky thuộc lớp Iowa; và Montana, Ohio, Maine, New HampshireLouisiana thuộc lớp Montana. (Newhart, Max R. (2007) [1995]. American Battleships: A Pictorial History of BB-1 to BB-71 with prototypes Maine & Texas . Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Company. tr. 102–106. ISBN 1575100045. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp))
  4. ^ Kích cỡ của lớp Yamato được giữ kín đến mức phía Hoa Kỳ chỉ lượm lặt được chi tiết qua những báo cáo tình báo của Hải quân Đế quốc Nhật Bản mà họ thu được. (SRMN-012: 14th Naval District Combat Intelligence Unit. TS Summaries with Comments by CINCPAC War Plans/Fleet Intelligence Sections, ngày 13 tháng 2 năm 1942, RG 457, MHI.)
  5. ^ Bất chấp những đồn đại rằng lớp Yamato sẽ mang pháo 18,1-inch, Hải quân Hoa Kỳ không tin rằng Đế quốc Nhật Bản có đủ kiến thức và kinh nghiệm kỹ thuật để chế tạo pháo cỡ nòng lớn đến như thế, nên ước tính rằng lớp Yamato sẽ mang pháo chính 16 inch (406 mm). (Toynbee, Summary of International Affairs, 1936, p. 112. W. D. Puleston, The Armed Forces of the Pacific: A Comparison of the Military and Naval Power of the United States and Japan (New Haven: Yale University Press, 1941), p. 208–211. CNO to FDR, ngày 24 tháng 3 năm 1938, Navy Department, PSF, FDRL. General Board, "Characteristics of Battleships, 1941 Building Program", ngày 28 tháng 6 năm 1939, p. 121, NHC. Secretary to FDR, ngày 14 tháng 4 năm 1937, Claude Swanson Folder, Navy Department, PSF, FDRL.)
  6. ^ Vì chưa bao giờ được đóng, tốc độ thực mà những thiết giáp hạm này có thể đạt được khi chạy thử máy chỉ là dự đoán; tốc độ 27-28 knot thường được trích dẫn như là tốc độ có thể đạt được dựa trên tốc độ từng biết của lớp Iowa, tính toán dựa trên thiết kế lườn tàu của IowaMontana, và những giới hạn sức mạnh-công suất của động cơ tàu thủy được biết vào lúc đó. Department of the Navy. “Montana Class (BB-67 through BB-71)”. Naval Historical Center. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2008.
  7. ^ Không kể đến AlaskaHawaii, vì chúng còn là những vùng quốc hải cho đến sau thời đại thiết giáp hạm.
  8. ^ USS Kentucky là chiếc thiết giáp hạm có số hiệu lườn lớn nhất từng được chế tạo, nhưng không được hoàn tất cho Hải quân Hoa Kỳ. Xem: Kentucky. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History & Heritage Command.
  9. ^ USS Wisconsin (BB-64) là chiếc thiết giáp hạm có số hiệu lườn lớn nhất được chế tạo, cho dù trong thực tế nó hoàn tất trước chiếc USS Missouri (BB-63), khiến cho Missouri trở thành chiếc thiết giáp hạm Hoa Kỳ cuối cùng được hoàn thành. USS Wisconsin nhập biên chế vào ngày 16 tháng 4, 1944 (“Wisconsin (BB 64)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.), trong khi USS Missouri nhập biên chế vào ngày 11 tháng 6, 1944. (“Missouri (BB 63)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.)

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e “US Battleships”. USS Missouri Memorial Association. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  2. ^ a b c d e f g h i j k l Newhart, Max R. (2007) [1995]. American Battleships: A Pictorial History of BB-1 to BB-71 with prototypes Maine & Texas . Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Company. tr. 102–106. ISBN 1575100045. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  3. ^ a b Yarnall, Paul R. “NavSource Online: Battleship Photo Archive (BB-67 USS Montana)”. NavSource Naval History: Photographic History Of The U.S. Navy. NavSource Team. tr. 148. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
  4. ^ Johnston, Ian; McAuley, Rob (2002). The Battleships. London: Channel 4 Books (an imprint of Pan Macmillian, LTD). tr. 122. ISBN 0752261886.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  5. ^ a b c d e f g Minks, R. L. (2006). “Montana class battleships end of the line”. Sea Classics. Canoga Park, California: Challenge Publications. OCLC 3922521. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007. (một bản sao có tại địa chỉ FindArticles.com)
  6. ^ Department of the Navy. “Montana Class (BB-67 through BB-71)”. Naval Historical Center. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2008.
  7. ^ Cook, James F. (ngày 11 tháng 7 năm 2002). “Carl Vinson (1883–1981)”. The New Georgia Encyclopedia. University of Georgia. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2008.
  8. ^ United States Navy. “The Vinson Naval Plan”. United States Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2008.
  9. ^ a b c d e Rogers, J. David. “Development of the World's Fastest Battleships” (pdf). Missouri University of Science and Technology. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2007.
  10. ^ Pike, John E. “BB-67 Montana Class”. GlobalSecurity.org. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2008.
  11. ^ a b Naval Historical Center. Bureau of Ships' "Spring Styles" Book # 3 (1939–1944) -- (Naval Historical Center Lot # S-511) -- Battleship Preliminary Design Drawings. Truy cập 2007-12-01.
  12. ^ Lớp tàu sân bay Essex từng chịu đựng những giới hạn kích thước tương tự khi chúng bắt đầu được đóng. (Minks, R. L. (2006). “Montana class battleships end of the line”. Sea Classics. Canoga Park, California: Challenge Publications. OCLC 3922521. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007. (Convenience copy from FindArticles.com))
  13. ^ Montana. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History & Heritage Command.
  14. ^ “Montana (BB 67)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007.
  15. ^ Ohio. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History & Heritage Command.
  16. ^ “Ohio (BB 68)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007.
  17. ^ Maine. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History & Heritage Command.
  18. ^ “Maine (BB 69)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007.
  19. ^ New Hampshire. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History & Heritage Command.
  20. ^ “New Hampshire (BB 70)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007.
  21. ^ Louisiana. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History & Heritage Command.
  22. ^ “Louisiana (BB 71)”. Naval Vessel Register. United States Navy, Naval Sea Systems Command. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Keegan, John; Ellis, Chris; Natkiel, Richard. (2001). World War II: A Visual Encyclopedia. PRC Publishing Ltd. ISBN 1-85585-878-9.
  • Muir, Malcolm Jr. (October 1990). "Rearming in a Vacuum: United States Navy Intelligence and the Japanese Capital Ship Threat, 1936–1945". The Journal of Military History, Vol. 54, No. 4.
  • Naval Historical Foundation [2000] (2004). The Navy. New York: Barnes & Noble Inc. ISBN 0-7607-6218-X.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Dulin, Robert O., William H. Garzke, and Robert F. Sumrall. Battleships: United States Battleships in World War II, fourth printing with corrections and additions. Annapolis, Md: Naval Institute Press, 1976 (1985). ISBN 0870210998. Chapter 5, pp. 153–174. Devotes more space to the components of the (chosen) design, and less to the design studies, than Friedman's work.
  • Friedman, Norman. U.S. Battleships: An Illustrated Design History. Annapolis, Md: Naval Institute Press, 1985. ISBN 0870217151. Chapter 15, pp. 329–344. Includes details on all of the design studies conducted, including fast, heavily armored versions.
  • Scarpaci Wayne. US Battleships 1941–1963 and illustrated technical reference Art by Wayne publications 2008. pgs 103-104

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Lớp thiết giáp hạm Montana