Trích Giáo trình PPNCKHXH&NV.(B4)
Trích Giáo trình PPNCKHXH&NV.(B4)
Trích Giáo trình PPNCKHXH&NV.(B4)
Hà Nội 2020
1
HƯỚNG DẪN HỌC
1. Tài liệu học tập:
2
CHƯƠNG III
PHƯƠNG PHÁP LUẬN
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3
Các ý kiến khác nhau về phương pháp luận không phủ nhận
phương pháp luận là phạm trù thuộc về nhận thức, tư duy, có ý nghĩa
quan trọng trong mọi hoạt động của con người. Phương pháp luận có
quan hệ mật thiết với thế giới quan, với lý luận. Trong đó, phương
pháp luận và thế giới quan đều thể hiện những quan niệm, nguyên tắc
chung cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Thế giới
quan là quan niệm của con người về thế giới. Trong đó, chỉ những
quan niệm mang tính hệ chuẩn (có tính nguyên tắc, có tính dẫn đường,
định hướng…) của thế giới quan mới trở thành nội dung của phương
pháp luận.
Phương pháp luận và lý luận là hai phạm trù cùng trình độ, phản
ánh bản chất, tính quy luật của thế giới khách quan. Song không thể
đồng nhất lý luận và phương pháp luận bởi chỉ những nội dung lý luận
mang tính chuẩn mực (chung nhất, cơ bản nhất, có tính định hướng…)
mới trở thành nội dung của phương pháp luận – cái chi phối hoạt động
nhận thức và thực tiễn của con người.
Từ những cách tiếp cận khác nhau, có thể thấy phương pháp luận
nghiên cứu khoa học là lý luận về phương pháp nhận thức và cải tạo thế
giới. Phương pháp luận nghiên cứu là hệ thống quan điểm có tính nguyên
tắc mà nhà nghiên cứu coi là cơ sở, điểm xuất phát cho việc lựa chọn, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cũng như dự kiến phạm vi, mức độ sử
dụng phương pháp ấy để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Bất kỳ một nghiên cứu nào cũng thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận nghiên cứu nhất định.
Phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn nhà nghiên cứu trên con
đường tìm tòi nghiên cứu. Nắm vững phương pháp luận là điều kiện thiết
yếu để thành công trong nghiên cứu khoa học.
4
b. Các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học
- Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận triết học - những
quan điểm, nguyên tắc chung nhất, xuất phát điểm cho việc lựa chọn và sử
dụng các phương pháp bộ môn và phương pháp luận chung, chi phối cả
phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động thực tiễn.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học lĩnh vực xã hội và nhân văn ở
nước ta, phương pháp luận chung nhất là phương pháp biện chứng mác xít.
Triết học Mác Lê nin bao gồm những quan điểm có tính nguyên tắc về thế
giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người. Có thể kể đến những nguyên tắc căn bản như nguyên tắc khách
quan, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể…
- Phương pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc xác định
các phương pháp nhằm giải quyết các vấn đề của nhóm các ngành khoa học
có những điểm chung nhất định nào đó. Chẳng hạn, đối với việc nghiên cứu
khoa học nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn thì quan điểm giai cấp,
tiếp cận lợi ích… là những nguyên tắc không thể xa rời.
- Phương pháp luận riêng hay phương pháp luận bộ môn là những
luận điểm, lý thuyết cơ bản và góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa học,
mỗi đề tài khoa học cụ thể. Chẳng hạn, phương pháp luận sử học, phương
pháp luận văn học… là phương pháp luận mà mỗi đề tài cụ thể luôn có. Nó
là những nguyên tắc tương ứng, phù hợp với đối tượng mà người nghiên cứu
xác định.
Các cấp độ phương pháp luận độc lập tương đối, hợp thành hệ thống
khoa học về phương pháp chỉ đạo việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp
cụ thể sao cho khoa học, hiệu quả. Phương pháp luận chung đóng vai trò là
nguyên tắc, căn cứ để người nghiên cứu lựa chọn, sử dụng các phương pháp
nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành khoa học đó.
5
II. Phương pháp nghiên cứu khoa học
1. Phương pháp và các yếu tố chi phối phương pháp
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy lạp Methodos với
nghĩa là con đường và công cụ nhận thức và cải biến hiện thực của chủ thể.
Ở mỗi lĩnh vực hoạt động và cách tiếp cận, cách hiểu và sử dụng thuật ngữ
phương pháp cũng khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là toàn
bộ những cách thức mà con người lựa chọn và sử dụng để tác động vào đối
tượng nhằm đạt được mục đích của chủ thể hoạt động.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là tập hợp những cách thức, biện
pháp thu thập thông tin về đối tượng, xử lý các thông tin đó để đạt được các
mục tiêu nghiên cứu đã xác định và làm sáng tỏ giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu khoa học hình thành và chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố.
Một là, sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nghiên cứu. Chủ thể
nghiên cứu với mức độ tri thức, kinh nghiệm, khả năng hoạt động…làm nên
tính chủ quan của việc xác định, lựa chọn và sử dụng phương pháp nghiên
cứu khoa học. Khách thể nghiên cứu với đặc điểm, trình độ kết cấu, quy luật
khách quan chi phối đối tượng quy định tính khách quan của những phương
pháp nghiên cứu. Nói khác đi, việc phát hiện ra phương pháp, lựa chọn
phương pháp và sử dụng phương pháp cũng như việc bổ sung, hoàn thiện
phương pháp thuộc về những nỗ lực chủ quan, sự sáng tạo của chủ thể. Song
nguồn gốc, nội dung, tính chất của phương pháp nghiên cứu lại chịu nhiều
chi phối của những yếu tố mang tính khách quan và thuộc về khách thể
nghiên cứu. Để có phương pháp nghiên cứu hiệu quả, nhà khoa học Bêcơn
cho rằng “con người muốn cải tạo thế giới nhưng trước hết phải hiểu những
quy luật của nó”.
6
Hai là, phương pháp nghiên cứu khoa học chịu sự chi phối của mục
đích và nội dung nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu sẽ quy định những
phương pháp nghiên cứu tương ứng. Muốn có được sự thành công trong
nghiên cứu, phương pháp phải phù hợp với mục đích nghiên cứu đã được
xác định. Thực tiễn và lịch sử phát triển khoa học đã chứng tỏ rằng, sau khi
xác định mục tiêu, vấn đề không kém phần quan trọng và khó khăn là tìm ra
phương pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu ấy nhanh và hiệu quả nhất.
Mặt khác, không có phương pháp nghiên cứu vạn năng ứng với mọi
nội dung nghiên cứu. Sự thống nhất giữa nội dung và phương pháp thể hiện
ở logic phát triển của bản thân đối tượng nghiên cứu. Nội dung là tổng hợp
những mặt, yếu tố hợp thành đối tượng nghiên cứu. Hình thức đối tượng
nghiên cứu biểu thị qua cách thức liên kết của những mặt, những yếu tố,
những quá trình ấy. “Phương pháp là ý thức về hình thức của sự vận động
bên trong của nội dung” (Hêghen)
Ba là, hiệu quả của phương pháp nghiên cứu khoa học chịu sự chi
phối của cách thức tổ chức, phối hợp có kế hoạch các hoạt động nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hoạt động có kế hoạch được tổ
chức một cách hợp lý để đạt được các mục bộ phận, hướng tới đạt mục đích
chung của hoạt động nghiên cứu.
Bốn là, hiệu quả của phương pháp nghiên cứu khoa học luôn gắn với
mức độ hỗ trợ của các công cụ và phương tiện kỹ thuật. Phương tiện kỹ
thuật phù hợp, hiện đại sẽ tạo thuận lợi cho một phương pháp triển khai hiệu
quả và ngược lại. Do vậy, lựa chọn phương tiện phụ trợ phương pháp ngày
càng có vai trò quan trọng khi bàn đến tính hiệu quả của phương pháp
nghiên cứu.
2. Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học
7
Các phương pháp nghiên cứu khoa học rất phong phú và đa dạng. Sự
phân loại hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học là cơ sở cho việc lựa
chọn, vận dụng và sáng tạo phương pháp trong thực hiện công trình nghiên
cứu của nhà khoa học.
Dựa trên phạm vi áp dụng phương pháp được chia thành: Phương
pháp riêng - phương pháp áp dụng cho từng ngành khoa học; Phương pháp
chung - phương pháp áp dụng cho nhiều ngành khoa học; Phương pháp phổ
biến - phương pháp áp dụng cho mọi ngành khoa học, cho toàn bộ hoạt động
nhận thức và thực tiễn của con người. Các phương pháp phổ biến chính là
các quan điểm, nguyên tắc của triết học, mà trước hết là của phép biện
chứng - phương pháp biện chứng. Các phương pháp biện chứng được xây
dựng từ nội dung tri thức chứa trong các nguyên lý, quy luật, phạm trù của
phép biện chứng duy vật, và chúng tác động trong sự hỗ trợ lẫn nhau.
Dựa trên lĩnh vực áp dụng, phương pháp được chia thành: Phương
pháp hoạt động thực tiễn - phương pháp áp dụng trong lĩnh vực hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới của con người; Phương pháp nhận thức khoa học -
phương pháp áp dụng trong quá trình nghiên cứu khoa học.
Theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một đề tài khoa
học, phương pháp được chia làm 3 nhóm: nhóm phương pháp thu thập
thông tin, nhóm phương pháp xử lý thông tin và nhóm phương pháp
trình bày, diễn đạt thông tin nghiên cứu.
B. Các phương pháp nghiên cứu khoa học
I. Một số phương pháp nghiên cứu khoa học phân loại theo logic biện
chứng
Dựa trên cơ sở có tính nguyên tắc của nhận thức luận mác xít và logic
biện chứng, người ta chia thành các phương pháp nhận thức khoa học thành:
phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp lịch sử - logic; phương
8
pháp quy nạp - diễn dịch…Các phương pháp nhận thức khoa học không tách
rời, loại trừ nhau mà có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau
trong quá trình nhận thức chân lý. Mỗi phương pháp nhận thức có vị trí, vai
trò nhất định, áp dụng hiệu quả cho mỗi loại đối tượng nghiên cứu nhất định
và phù hợp trong tính lịch sử - cụ thể của đối tượng; Thành công trong
nghiên cứu chỉ có thể đạt được khi chủ thể sử dụng hợp lý, tổng hợp các
phương pháp. Việc cào bằng trong đánh giá vị trí vai trò của mỗi phương
pháp nhận thức hay cương điệu phương pháp này, hạ thấp phương pháp kia
chắc chăn dẫn đến những sai lầm trong nhận thức khoa học.
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận
để đi sâu nhận thức các bộ phận đó. Còn tổng hợp là phương pháp thống
nhất các bộ phận đã được phân tích nhằm nhận thức cái toàn bộ.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng
thống nhất với nhau giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn.
Không có phân tích thì không hiểu được những cái bộ phận cấu thành cái
toàn bộ và ngược lại, không có tổng hợp thì không hiểu cái toàn bộ như một
chỉnh thể được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào. Vì vậy,
muốn hiểu thực chất của đối tượng mà chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp
không thôi thì chưa đủ mà phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có
ưu thế riêng của mình.
2. Phương pháp quy nạp và diễn dịch
Quy nạp là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức
riêng đến kết luận chứa đựng tri thức chung. Còn diễn dịch là phương pháp
suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức chung đến kết luận chứa đựng tri
thức riêng.
9
Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng
thống nhất với nhau giúp phát hiện ra những tri thức mới về đối tượng.
Sự đối lập của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp được
dùng để khái quát các tài liệu quan sát, thí nghiệm nhằm xây dựng các giả
thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của khoa học, vì vậy quy nạp, đặc biệt
là quy nạp khoa học, có giá trị lớn trong khoa học thực nghiệm. Diễn dịch
được dùng để cụ thể hóa các giả thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của
khoa học trong các điều kiện tình hình cụ thể, vì vậy diễn dịch, đặc biệt là
phương pháp giả thuyết - diễn dịch, phương pháp tiên đề, có giá trị lớn trong
khoa học lý thuyết.
Sự thống nhất của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp xây
dựng tiền đề cho diễn dịch, còn diễn dịch bổ sung thêm tiền đề cho quy nạp
để thêm chắc chắn. Không có quy nạp thì không hiểu được cái chung tồn tại
trong cái riêng như thế nào, và ngược lại, không có diễn dịch thì không hiểu
cái riêng có liên hệ với cái chung ra sao. Vì vậy, muốn hiểu thực chất của
đối tượng mà chỉ có quy nạp hoặc chỉ có diễn dịch không thôi thì chưa đủ
mà phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên
cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế của riêng mình.
3. Phương pháp lịch sử - logic
Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát sinh, phát triển và tiêu
vong của sự vật trong tính đa dạng, sinh động của nó. Còn lôgích là phạm
trù dùng để chỉ tính tất yếu - quy luật của sự vật (lôgích khách quan) hay
mối liên hệ tất yếu giữa các tư tưởng (lôgích chủ quan). Phương pháp lịch sử
là phương pháp đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư duy quá trình lịch sử - cụ
thể với những chi tiết của nó, nghĩa là phải nắm lấy sự vận động, phát triển
lịch sử của sự vật trong toàn bộ tính phong phú của nó. Phương pháp lôgích
là phương pháp đòi hỏi phải vạch ra bản chất, tính tất nhiên - quy luật của
10
quá trình vận động, phát triển của sự vật dưới hình thức trừu tượng và khái
quát của nó, nghĩa là phải loại bỏ cái ngẫu nhiên, vụn vặt ra khỏi tiến trình
nhận thức sự vận động, phát triển của sự vật.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là hai phương pháp
nghiên cứu đối lập nhau nhưng thống nhất biện chứng với nhau giúp xây
dựng hình ảnh cụ thể và sâu sắc về sự vật. Bởi vì, muốn hiểu bản chất và
quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó, đồng
thời có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được
lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Khi nghiên cứu cái lịch sử,
phương pháp lịch sử cũng phải nắm lấy “sợi dây” lôgích của nó để thông
qua đó mà phân tích các sự kiện, biến cố lịch sử. Còn khi tìm hiểu bản chất,
quy luật, phương pháp lôgích cũng không thể không dựa vào các tài liệu lịch
sử để uốn nắn, chỉnh lý chúng. Tuy nhiên, tuỳ theo đối tượng và nhiệm vụ
nghiên cứu mà nhà khoa học có thể sử dụng phương pháp nào là chủ yếu.
4. Phương pháp đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ
thể.
Cái cụ thể là phạm trù dùng để chỉ sự tồn tại trong tính đa dạng. Cái
trừu tượng là phạm trù dùng để chỉ kết quả của sự trừu tượng hóa tách một
mặt, một mối liên hệ nào đó ra khỏi cái tổng thể phong phú đa dạng của sự
vật. Vì vậy, cái trừu tượng là một bộ phận, một mặt của cái cụ thể, là một
bậc thang trong quá trình xem xét cái cụ thể (khách quan). Từ những cái trừu
tượng tư duy tổng hợp lại thành cái cụ thể (trong tư duy).
Nhận thức khoa học là sự thống nhất của hai quá trình nhận thức đối
lập: Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng và Từ trừu tượng đến cụ thể (trong
tư duy). Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng là phương pháp đòi hỏi phải
xuất phát từ những tài liệu cảm tính thông qua phân tích xây dựng các khái
niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc
11
tính của sự vật. Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư duy) là phương pháp đòi
hỏi phải xuất phát từ những khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu
tượng thông qua tổng hợp biện chứng đi đến cái cụ thể (trong tư duy.
Mỗi phương pháp nêu trên có vị trí khác nhau trong quá trình nhận
thức chân lý khách quan. Mỗi phương pháp có tính độc lập nhưng chúng
thống nhất trong quá trình nhận thức sự vật. Chúng hỗ trợ, bổ sung và cung
cấp những tri thức thu được để quá trình nhận thức đạt đến chân lý.
II. Các phương pháp nghiên cứu khoa học phân loại theo phương thức
quan sát
Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch một sự
kiện, một hiện tượng, quá trình nhằm thu thập thông tin về sự kiện, hiện
tượng hay quá trình ấy. Quá trình quan sát được tiến hành theo trình tự. Thứ
nhất, xác định đối tượng quan sát, các phương diện cụ thể cần quan sát trên
cơ sở mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Thứ hai, lập kế hoạch về thời gian, địa
điểm, số lượng đối tượng, người quan sát. Thứ ba, lựa chọn phương thức
quan sát, phương tiện quan sát và tiến hành quan sát. Cuối cùng là xử lý
thông tin thu nhận được từ quan sát.
Quan sát là phương thức cơ bản để nhận thức sự vật. Quan sát được sử
dụng trong phát hiện vấn đề nghiên cứu, xây dựng giả thuyết và kiểm chứng
giả thuyết nghiên cứu. Quan sát đem lại cho người nghiên cứu những tài liệu
cụ thể, cảm tính, trực quan song có ý nghĩa khoa học rất lớn.
Quan sát có nhiều loại. Theo mức độ chuẩn bị, quan sát được phân
chia thành quan sát có chuẩn bị trước và quan sát bất chợt. Theo quan hệ của
người quan sát và đối tượng có quan sát không tham dự và quan sát có tham
dự. Theo mục đích nắm bắt đối tượng có quan sát hình thái, quan sát chức
năng. Theo mục đích xử lý thông tin có quan sát mô tả và quan sát phân tích.
Theo tính liên tục của quan sát, có thể phân chia thành quan sát định kỳ,
12
quan sát chu kỳ, quan sát liên tục. Theo phương thức quan sát có quan sát
trực tiếp và quan sát gián tiếp…
Căn cứ vào phương thức quan sát, có thể phân loại phương pháp
nghiên cứu thành các nhóm: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp
thực nghiệm và phương pháp phi thực nghiệm.
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
a. Tài liệu khoa học
Tài liệu là vật thể cung cấp những chỉ dẫn thông tin. Tài liệu gồm hai
đặc trưng cơ bản.
Đặc trưng về mặt vật chất thể hiện ở chất liệu và tín hiệu sử dụng.
Đặc trưng tri thức thể hiện ở nội dung của tài liệu, mức độ xử lý và
phổ biến của tài liệu. Tùy theo mức độ xử lý nội dung, người ta phân biệt
các loại tài liệu như tài liệu sơ cấp, tài liệu thứ cấp…
Tài liệu khoa học là những văn bản hoặc vật thể chứa đựng những
thông tin khoa học giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học nào
đó. Tài liệu khoa học không chỉ là phương tiện công bố kết quả nghiên cứu
mà còn là cơ sở khẳng định quyền tác giả của nhà nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin
khoa học trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác tư
duy để rút ra kết luận khoa học.
Mục đích của nghiên cứu tài liệu là nhằm nhận dạng sơ bộ quy luật
chung của đối tượng nghiên cứu. Những quy luật này đã được trình bày
trong tài liệu của những nhà nghiên cứu trước. Nhà nghiên cứu thu thập,
tổng hợp chúng theo một trình tự logic nhất định để làm tái hiện những quy
luật đó.
13
Bản chất của phương pháp nghiên cứu tài liệu là nghiên cứu các tài
liệu đã tích lũy trong quá khứ, đúc kết, tìm kiếm thông tin về quy luật diễn ra
trong quá khứ có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Đối với đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, phương pháp
nghiên cứu tài liệu được sử dụng phổ biến và có vị trí vai trò quan trọng
trong việc tạo dựng cơ sở lý luận cho một đề tài nghiên cứu.
Đặc trưng của nhóm phương pháp này là người nghiên cứu không có
bất kỳ một sự quan sát trực tiếp nào lên đối tượng nghiên cứu. Song phương
pháp này lại đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có lý thuyết “nền” làm căn cứ xuất
phát như thế giới quan, quan điểm, lập trường tư tưởng để có thái độ tiếp
nhận và cách thức xử lý thông tin phù hợp.
b. Các phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tài liệu bao gồm tập hợp các phương pháp: phân loại tài
liệu, phân tích tài liệu, đọc, ghi chép và tóm tắt tài liệu khoa học.
- Phương pháp thu thập và phân loại tài liệu
+ Thu thập tài liệu là bước đầu tiên, cần thiết và quan trọng cho bất kỳ
hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Việc thu thập tài liệu giúp nhà nghiên
cứu tránh được sự trùng lặp với các nghiên cứu đã hoàn thành; Người nghiên
cứu có thêm kiến thức sâu, rộng về lĩnh vực nghiên cứu đang theo đuổi, làm
rõ hơn đề tài nghiên cứu đã lựa chọn.
Căn cứ vào vấn đề nghiên cứu và xuất phát từ giả thuyết khoa học,
nhà nghiên cứu tiến hành xác định nguồn tài liệu, tìm kiếm và lựa chọn
những tài liệu cần thiết nhằm làm sang rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
để chứng minh cho giả thuyết khoa học của mình.
Về nguyên tắc, tất cả những tài liệu chứa đựng các thông tin liên quan
đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đều phải được thu thập. Song hiện nay,
sự phát triển khoa học cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cách
14
mạng thông tin diễn ra trên toàn cầu tác động mạnh mẽ tới quy luật tồn tại
và phát triển tài liệu khoa học. Người ta dự đoán cứ sau 10 năm số tài liệu
khoa học lại tăng gấp đôi và tiếp tục gia tăng theo hàm số mũ.
Bên cạnh đó, quy luật về sự tập trung và tản mạnh thông tin cũng tác
động đến sự tồn tại của tài liệu khoa học. Quy luật này hình thành do quá
trình phân lập và tích hợp khoa học. Quá trình phân lập các khoa học dẫn
đến việc hình thành các tài liệu chuyên môn hẹp. Quá trình tích hợp khoa
học lại dẫn đến việc hình thành các tài liệu khoa học liên ngành.
Tính hữu ích của một tài liệu khoa học được xác định bằng giá trị nội
dung, tính thời sự cũng như khả năng tương thích của nó đối với vấn đề
nghiên cứu mà nhà khoa học quan tâm. Đối với một vấn đề nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn, tính hữu ích của thông tin và giá trị của tài liệu trùng
khớp khi nó tương đồng với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Điều
này phân biệt với việc xem xét gia trị và tính hữu ích của thông tin khoa học
công nghệ và kỹ thuật. Thông thường, tài liệu khoa học xã hội có tuổi thọ
giá trị dài hơn. Chẳng hạn, tài liệu có tuổi thọ hang thế kỷ hoặc xa hơn như
tài liệu lịch sử, tài liệu triết học… Thậm chí, giá trị của tài liệu đó còn được
đo bằng tuổi thọ của nó.
+ Phân loại tài liệu
Phân loại tài liệu được tiến hành sau khi thu thập tài liệu để chuẩn bị
cho quá trình đọc, khai thác nội dung.
Phân loại tài liệu là phương pháp sắp xếp tài liệu khoa học thành hệ
thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa
học có cùng dấu hiệu theo mục đích sử dụng của nhà nghiên cứu.
Các hình thức phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo tên tác
giả, phân loại theo thời gian công bố, hình thức công bố. Ngoài ra còn nhiều
15
cách phân loại khác, tùy theo mục đích nghiên cứu của đề tài mà nhà nghiên
cứu phân loại cho phù hợp.
- Phân tích và tổng hợp tài liệu
+ Phân tích tài liệu
Phân tích tài liệu là phương pháp nghiên cứu tài liệu về một chủ đề
bằng cách tách chúng thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu
chúng một cách sâu sắc, tìm thông tin phục vụ vấn đề nghiên cứu.
Phân tích tài liệu nhằm xác định độ tin cậy, tính khách quan, tính cập
nhật của tài liệu, giới hạn và phạm vi của vấn đề mà tài liệu đề cập đến. Mục
đích của việc phân tích tài liệu là thông qua phân tích hình thức và nội dung
tài liệu, nhà nghiên cứu xác định tính hữu ích của tài liệu và phạm vi có thể
kế thừa nội dung tài liệu đó đối với đề tài họ triển khai. Thông qua việc phân
tích hình thức tài liệu, xác định nguồn tài liệu, tác giả, nơi công bố, hình
thức công bố tài liệu. Trên cơ sở phân tích tài liệu, nhà nghiên cứu xác định
mức độ phải xử lý tài liệu theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Sau khi phân tích các dấu hiệu hình thức, người nghiên cứu tiến hành
phân tích một số tiêu chí cơ bản về nội dung tài liệu. Theo cách này, người
nghiên cứu lập một phiếu phân tích tài liệu đối với mỗi tài liệu hay nhóm tài
liệu cụ thể. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu và khung lý thuyết
của đề tài để thiết kế nội dung của mỗi phiếu phân tích tài liệu. Phiếu phân
tích tài liệu xây dựng theo các tiêu chí: chủ đề chính của tài liệu, nội dung cơ
bản, mục đích, phạm vi nghiên cứu cũng như mức độ sử dụng của thông tin
trong tài liệu.
+ Tổng hợp tài liệu
Tổng hợp tài liệu là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận
thông tin từ tài liệu từ các tài liệu thu thập được nhằm tạo ra một cách hiểu
đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp tài liệu được thực hiện
16
trên nhiều tài liệu phong phú về đối tượng. Tổng hợp tài liệu được thực hiện
trên cơ sở kết quả phân tích tài liệu, cho phép nhà nghiên cứu có những
thông tin toàn diện và khái quát về vấn đề nghiên cứu dựa trên những tài liệu
đã có.
Tổng hợp tài liệu nhằm mục đích xác định tính tương thích của tài liệu
so với mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, lựa chọn tư liệu cần và đủ, sắp
xếp chúng theo tiến trình thời gian hay quan hệ nhân quả.
Phân tích và tổng hợp tài liệu là hai phương pháp có chiều hướng đối
lập nhau song thống nhất biện chứng và bổ trợ cho nhau, giúp nhà nghiên
cứu nắm bắt được thông tin xung quanh vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc
và khái quát.
- Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu
Đọc và ghi chép tài liệu là một công đoạn trong phương pháp nghiên
cứu tài liệu khoa học. Cách thức đọc và ghi chép tài liệu nói lên nhà nghiên
cứu sẽ sử dụng, tiếp thu, ghi nhớ thông tin tài liệu đó như thế nào.
+ Đọc tài liệu
Phương pháp đọc tài liệu gắn liền với hành vi tư duy. Yêu cầu đạt
được khi đọc tài liệu là ghi nhớ được tên tài liệu, nguồn, tác giả tài liệu, nội
dung cơ bản, những dữ kiện được đề cập đến trong tài liệu, khả năng sử
dụng chúng trong giải quyết vấn đề khoa học của nhà nghiên cứu. Đối với
từng tài liệu, căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu của từng đề tài cụ thể có thể có
nhiều cách đọc khác nhau.
Đọc thông thường đối với tài liệu không cần thiết phải quá ghi nhớ và
chú ý nhiều.
Đọc nhanh: đọc tài liệu phổ biến thông tin khoa học với tốc độ nhanh,
đồng thời đặt ra yêu cầu ghi nhớ những thông tin căn bản trong tài liệu.
17
Đọc trượt là kiểu đọc chọn lọc, khi đọc mắt lướt theo toàn bộ nội dung
tài liệu nhưng chỉ chú ý đến những đoạn cần thiết.
Đọc quét cũng là một kiểu đọc chọn lọc. Khi đọc mắt không lướt trên
toàn bộ nội dung tài liệu mà chỉ lướt theo những phần có thể có thông tin ẩn.
Chẳng hạn khi nhà nghiên cứu tìm những số liệu, dữ kiện cần thiết trong các
sách tra cứu.
Đọc sâu đối với những tài liệu chuyên môn phức tạp, yêu cầu nhà
nghiên cứu phải suy nghĩ và phân tích ngay trong quá trình đọc.
Để có thể thu được những thông tin hiệu quả, nhà nghiên cứu còn cần
biết điều chỉnh tốc độ đọc, phương pháp đọc một cách phù hợp. Thông
thường, trình tự đọc một tài liệu là: đọc tổng quát tài liệu nhằm xác định
những phần, những trang phải đọc kỹ; Đọc kỹ những phần đã đánh dấu và
tiến hành ghi chép.
+ Ghi chép tài liệu
Sau khi đọc lướt toàn bộ tài liệu, nhà khoa học tiến hành đọc kỹ và ghi
chép những nội dung tài liệu có ý nghĩa với nhà khoa học và liên qua đến
vấn đề nghiên cứu của mình. Đối với các tài liệu khoa học, có thể tiến hành
ghi chép nội dung tài liệu theo những quy tắc ghi nhớ. Những ghi chép ban
đầu này chính là vật liệu thông tin đầu tiên làm tiền đề cho các nhà khoa học
tiến hành xử lý thông tin trong quá trình nghiên cứu tài liệu. Đó là thực hiện
tóm tắt tài liệu khoa học.
- Phương pháp thực hiện tóm tắt khoa học
Tóm tắc khoa học thường được thực hiện sau khi nhà nghiên cứu tiến
hành đọc và ghi chép tài liệu.Bản tóm tắt thực hiện trên cơ sở các kết quả
thu được của việc đọc và ghi chép tài liệu.
Mục đích của việc thực hiện tóm tắt khoa học đối với tài liệu là nhằm
loại bỏ những thông tin không cần thiết trong những tài liệu đã thu thập
18
được, cô đọng và làm bật lên nội dung của tài liệu mà thích ứng và cần thiết
với vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là công việc xử lý thông tin cần thiết, tích
lũy tri thức cho nhà nghiên cứu.
Tùy theo nội dung vấn đề nghiên cứu, tùy theo nội dung thông tin
trong từng tài liệu khoa học mà nhà nghiên cứu có thể tiến hành tóm tắt tài
liệu theo từng mức độ khác nhau về độ dài, mức độ chi tiết, có đánh giá, phê
phán hay không, tóm tắt toàn bộ tài liệu hay từng phần tài liệu.
Tóm tắt lược thuật là văn bản do nhà nghiên cứu thực hiện nhằm ghi
chép lại một cách cô đọng, trung thực thông tin về kết quả nghiên cứu của
một hay một nhóm tài liệu đã được phân loại có lien quan trực tiếp đến mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện của một đề tài khoa học.
Bản lược thuật là văn bản đúc kết một cách cô đọng nội dung của tài
liệu. Trong đó phải nêu bật được nội dung chủ đề của tài liệu, thời gian, bối
cảnh, địa điểm của sự việc, sự kiện, các phương pháp được tác giả tài liệu sử
dụng, những kết luận và triển vọng của vấn đề tác giả tài liệu nêu lên.
Bản lược thuật đạt trình độ khách quan, khoa học, làm căn cứ tin cậy
của đề tài khi được thực hiện theo những tiêu chuẩn sau: vấn đề mà tài liệu
nêu lên phải được lược thuật đầy đủ theo trình tự thời gian, đảm bảo tính lịch
sử, tính logic, tránh lược thuật các vấn đề bằng cách tách rời, cô lập vấn đề
đó khỏi bối cảnh tồn tại của nó. Bản lược thuật tài liệu cần ngắn gọn, súc
tích về nội dung, đảm bảo tính chính xác của các thuật ngữ mà tài liệu trình
bày.
Tóm tắt tổng thuật là bản trình bày tổng hợp về một hay một số vấn đề
lien quan đến mục tiêu, nhiệm vụ của một đề tài nghiên cứu dựa trên nhiều
tài liệu cùng đề cập đến các vấn đề đó.
Bản tóm tắt tổng thuật cũng cần đạt được những yêu cầu của bản tóm
tắt lược thuật. Đồng thời có sự liên hệ, so sánh, bình luận, phê phán một
19
cách sơ bộ các thông tin đó. Nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự kiến về mục
đích, mức độ và phạm vi tham khảo. Bản tổng thuật tài liệu cần đảm bảo
tính khách quan khoa học của các tài liệu khảo cứu.
Bản tóm tắt lược thuật và tổng thuật tài liệu là căn cứ, dữ liệu khoa
học quan trọng để nhà nghiên cứu thông qua hoạt động tư duy sang tạo của
mình hình thành các ý tưởng nghiên cứu, tìm kiếm luận cứ chứng minh giả
thuyết. Bản tóm tắt lược thuật hay tổng luận tài liệu do người nghiên cứu
thực hiện khác với bản tổng thuật tài liệu do các cơ bản thông tin thực hiện
nhằm mục đích phổ biến thông tin.
Bản tổng thuật tài liệu này cũng khác với tổng luận kết quả nghiên
cứu thực hiện sau khi hoàn thành đề tài, là sản phẩm chính của một đề tài.
Bản tổng hợp vấn đề nghiên cứu đề cập đề cập đến trong phần này chỉ dừng
ở các sản phẩm trung gian trong nghiên cứu một đề tài.
II. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
a. Khái niệm
Thực nghiệm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng được
thực hiện bởi những quan sát trực tiếp trong điều kiện gây biến đổi cho đối
tượng khảo sát một cách có kiểm soát và chủ đích.
Thực chất của phương pháp thực nghiệm là nghiên cứu dựa trên sự
mô phỏng các quá trình hiện thực. Thực nghiệm giúp nhà khoa học chủ động
tạo ra các hoạt động, các biến chuyển giúp nhà nghiên cứu quan sát mô hình
hay môi trường giả định thông qua sự mô phỏng các quá trình diễn ra trong
thực tế.
Mục đích của thực nghiệm xã hội là quá trình tạo lập, thiết kế mô
hình, thiết chế xã hội và cách thức tác động có tính quy chuẩn, mẫu mực để
nghiên cứu, thử nghiệm, điều chỉnh và nhân rộng, đưa vào đời sống xã hội
20
hiện thực. Với ý nghĩa đó, thực nghiệm xã hội là phương pháp được lựa
chọn trong nhiều nghiên cứu về tổ chức, quản lý xã hội
Về bản chất, phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học xã
hội cũng tương tự như trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Song, xuất phát từ tính đặc thù trong nghiên cứu xã hội, thực hiện phương
pháp thực nghiệm là không đơn giản.
Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện chủ yếu dựa vào nguyên tắc
xem xét mối quan hệ nhân quả. Yêu cầu chủ yếu của phương pháp này là
nhà nghiên cứu cần nắm chắc và thao túng được nguyên nhân trong một môi
trường có sự kiểm soát.
b. Các điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm
Một là, nhà nghiên cứu nhận thức được những yếu tố gây ảnh hưởng
đến sự nảy sinh và diễn biến của đối tượng nghiên cứu.
Hai là, người nghiên cứu xác định được những nguyên nhân của các
hiện tượng do vạch ra được các điều kiện ảnh hưởng.
Ba là, người nghiên cứu cần và có thể lặp lại nhiều lần thực nghiệm.
c. Các bước tiến hành thực nghiệm
Nhà nghiên cứu cần nắm được tiến trình triển khai phương pháp thực
nghiệm gồm ba giai đoạn cơ bản.
Một là, chuẩn bị thực nghiệm, người nghiên cứu cần xác định mục
đích thực nghiệm, đối tượng thực nghiệm, thời gian, địa điểm thực nghiệm.
Đồng thời, nhà nghiên cứu chuẩn bị các tiêu chí đo đạc kết quả thực nghiệm.
Hai là, tiến hành thực nghiệm. Nhà nghiên cứu phân công cộng tác
viên giám sát và thu nhận các thông tin trong quá trình thực nghiệm; kịp thời
kiểm soát và điều chỉnh các tác động trong quá trình thực nghiệm.
Ba là, xử lý kết quả thực nghiệm. Nhà nghiên cứu kiểm tra lại các
thông số, so sánh, đối chiếu, đo lường kết quả thực nghiệm trên cơ sở tiêu
21
chí thực nghiệm đã xác định; viết báo cáo và có thể công bố kết quả thực
nghiệm.
2. Phân loại thực nghiệm
a. Phân loại theo diễn trình thời gian tiến hành thực nghiệm
Theo quá trình tiến hành thực nghiệm có thực nghiệm cấp diễn, thực
nghiệm bán cấp diễn và thực nghiệm trường diễn.
- Thực nghiệm cấp diễn là thực nghiệm để xác định sự tác dụng của
các giải pháp tác động hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng
nghiên cứu trong một thời gian ngắn.
- Thực nghiệm trường diễn là thực nghiệm nhằm xác định sự tác động
của các giải pháp hoặc ảnh hưởng của tác nhân lên đối tượng nghiên cứu lâu
dài, liên tục.
- Thực nghiệm bán cấp diễn diễn ra ở mức độ trung gian giữa hai quá
trình thực nghiệm nêu trên.
b. Phân loại theo nơi tiến hành thực nghiệm
Quá trình thực nghiệm có thể được tiến hành ở nhiều môi trường khác
nhau tùy theo yêu cầu của nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
Trong phòng thí nghiệm, người nghiên cứu hoàn toàn chủ động tạo
dựng mô hình nghiên cứu và khống chế các thông số. Người nghiên cứu có
thể kiểm soát toàn bộ điều kiện thực nghiệm, tạo ra tình huống như mong
muốn, chủ động kiểm soát hay vận dụng các biến số. Nhà nghiên cứu có thể
quan sát và đánh giá được kết quả của việc vận dụng các biến số ấy. Chính
vì vậy, thực nghiệm trong phòng có thể trở thành một phương thức nghiên
cứu mang tính kỹ thuật. Phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu tạo ra
được những tình huống cần thiết, quan sát chính xác các diễn biến của đối
tượng trong quá trình thực nghiệm. Đồng thời, nhà nghiên cứu có thể dự
22
kiến và đo lường kết quả chính xác hơn. Do vậy, thực nghiệm trong phòng
đặc biệt phù hợp với các ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm có những giới hạn nhất định khi
đơn giản hóa các quá trình hiện thực, nhất là các quá trình xã hội. Điều kiện
thực nghiệm trong phòng luôn có khoảng cách khá xa đối tượng thực.
- Thực nghiệm tại hiện trường
Nếu thực nghiệm trong phòng là sự mô phỏng hiện thực thì thực
nghiệm tại hiện trường được tiến hành trong môi trường hiện thực. Tại đây,
người nghiên cứu được tiếp cận mọi tham số và những điều kiện hoàn toàn
thực nhưng lại bị hạn chế về khả năng khống chế các tham số và các điều
kiện tham dự vào quá trình nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong quần thể xã hội
Đây là dạng thực nghiệm được tiến hành trên một cộng đồng người
trong những điều kiện sống của họ. Trong thực nghiệm này, người nghiên
cứu thay đổi các điều kiện sinh hoạt, cách thức tổ chức, quản lý… của đối
tượng. Trong các nghiên cứu khoa học xã hội, trong y học… thực nghiệm
trong quần thể xã hội ngày càng có vị trí quan trọng trong xây dựng và kiểm
chứng giả thuyết nghiên cứu.
c. Phân loại theo mục đích thực nghiệm
- Thực nghiệm thăm dò được tiến hành để phát hiện bản chất của đối
tượng nghiên cứu. Đây là phương pháp được sử dụng trong xây dựng giả
thuyết khoa học.
- Thực nghiệm kiểm chứng là những thực nghiệm nhằm tìm kiếm các
luận cứ để chứng minh cho các giả thuyết nghiên cứu.
- Thực nghiệm song hành là những thực nghiệm được tiến hành đối
với hai hay nhiều đối tượng khác nhau trong những điều kiện thực nghiệm
23
như nhau nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của cùng một điều kiện thực
nghiệm lên những đối tượng khác nhau.
- Thực nghiệm đối nghịch là những thực nghiệm được tiến hành trên
hai hay nhiều đối tượng như nhau trong các điều kiện thực nghiệm ngược
chiều nhau nhằm xác định mức độ chịu ảnh hưởng của cùng một loại đối
tượng dưới tác động của những điều kiện thực nghiệm khác nhau, thậm chí
đối nghịch nhau.
- Thực nghiệm đối chứng là những thực nghiệm được tiến hành đối
với một trong hay (hay trong nhóm) đối tượng như nhau. Trong trường hợp
này, người nghiên cứu muốn xác định mức độ tác động của các điều kiện
thực nghiệm so với các đối tượng không chịu các tác động đó. Các đối tượng
còn lại được coi là đối chứng của đối tượng thực nghiệm. Trong quá trình
nghiên cứu, nhà khoa học có thể thay đổi vị trí của hai nhóm này để thực
hiện phương pháp.
III. Các phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm
Phương pháp phi thực nghiệm được thực hiện dựa trên sự quan sát
những sự kiện đã hoặc đang tồn tại, thu thập số liệu thống kê về đối tượng
nhằm phát hiện bản chất hay quy luật tồn tại, vận động của đối tượng ấy, từ
đó xây dựng và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu. Trong phương pháp phi
thực nghiệm, người nghiên cứu chỉ quan sát trực tiếp mà không có bất kỳ sự
can thiệp nào gây biến đổi trạng thái của đối tượng nghiên cứu. Một số
phương pháp phi thực nghiệm được sử dụng trong nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn là: điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn, tổng kết thực tiễn…
1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
a. Đặc điểm của phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
24
Điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp người nghiên cứu thiết kế sẵn
một phiếu hỏi với những câu hỏi được sắp xếp theo trật tự logic nhất định để
có được thông tin về đối tượng.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ưu điểm là cho phép tiến hành
nghiên cứu trên một địa bàn rộng, nhiều người tham gia, có thể thu thập
được ý kiến của một số lượng lớn nghiệm viên. Song mức độ thành công của
phương pháp này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố thuộc về
năng lực, kỹ năng của nhà nghiên cứu, trạng thái tâm lý, nhận thức và mức
độ hợp tác của người được hỏi cũng như môi trường, tình huống triển khai
phương pháp. Trong phương pháp này người được hỏi tiến hành trả lời các
câu hỏi bằng cách tự ghi ý kiến của mình vào phương án trả lời tương ứng
trong bảng hỏi.
Trong phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, cần chú ý đến việc chọn
mẫu và thiết kế bảng hỏi.
b. Chọn mẫu và thiết kế bảng hỏi
* Chọn mẫu
Mẫu điều tra là tập hợp được lựa chọn, có đủ các yếu tố có tính chất
tiêu biểu và được rút ra từ một tập hợp lớn thuộc nhóm đối tượng nhà nghiên
cứu quan tâm. Điều tra chọn mẫu là điều tra không toàn bộ, trong đó người
ta chọn ngẫu nhiên một số đơn vị trong tổng thể nghiên cứu để điều tra, rồi
dùng kết quả thu thập được tính toán suy rộng cho toàn bộ tổng thể.
Chọn mẫu trong phương pháp này giúp quá trình nghiên cứu giảm chi
phí, thời gian,đảm bảo số liệu, dữ liệu thu được phản ánh chính xác nhóm
đối tượng.
Mẫu điều tra là số lượng cá thể hay đơn vị được chọn để trả lời câu
hỏi của nhà nghiên cứu. Việc chọn mẫu phải đảm bảo tính ngẫu nhiên và
tính đại diện.
25
Tính đại diện của mẫu phụ thuộc chủ yếu và các nhân tố sau:
- Mẫu sẽ có tính đại diện (cho tổng thể từ đó nó được chọn lựa) nếu
tất cả các thành viên của tổng thể đều có cơ hội ngang bằng để được lựa
chọn vào mẫu.
- Mẫu sẽ đại diện cho tổng thể nếu bản chất, cấu trúc của nó phản ánh
bản chất, cấu trúc của tổng thể (tức là phải gồm đủ những đặc tính chứa
trong tổng thể).
- Tính đại diện của mẫu không cần đại diện cho mọi khía cạnh của
tổng thể mà chỉ giới hạn đến những đặc tính phù hợp cho những nhu cầu cơ
bản của mục tiêu nghiên cứu.
- Tính đại diện của mẫu phụ thuộc chủ yếu vào kích cỡ mẫu và tính
đồng nhất của mẫu. Mẫu càng lớn, càng đồng nhất thì tính đại diện càng cao.
Có một số cách chọn mẫu sau:
Thứ nhất, lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản.
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giảng là phương pháp rút ra một phần của
tập hợp sao cho mỗi phần tử trong tập hợp ấy đều có cơ may đồng đều được
lựa chọn. Phương pháp này có ưu điểm cho phép thu được mẫu có tính đại
diện cao, có thể suy rộng các kết quả của mẫu cho tổng thể với một sai số
xác định, song để vận dụng phải có toàn bộ danh sách của tổng thể nghiên
cứu. Người nghiên cứu có thể rút thăm hoặc sử dụng bảng ngẫu nhiên để lấy
mẫu. Ngày nay, máy tính cho phép chúng ta dễ dàng chọn mẫu ngẫu nhiên
một cách dễ dàng và hiệu quả.
Thứ hai, lấy mẫu ngẫu nhiên hệ thống
Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống là chọn mẫu ngẫu nhiên phần tử trong
tổng thể theo một trật tự nhất định. Người nghiên cứu cần lập danh sách các
phần tử hiện có rồi tùy kích thước mẫu mà chọn bước nhảy. Chẳng hạn,
chọn một đơn vị ngẫu nhiên, giả định có thứ tự là i. lấy một số k bất kỳ làm
26
khoảng cách mẫu. Theo cách này, cuối cùng số mẫu được sử dụng sẽ gồm
một loạt phần tử có khoảng cách bằng k:
Mẫu (i), mẫu (i+k), mẫu (i + 2k), mẫu (i + 3k) …
Cách thức chọn mẫu này dù đảm bảo được tính đại diện, khách quan.
Song nhược điểm của phương pháp này là dễ mắc sai số hệ thống nếu như
tổng thể không được sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên mà theo một thứ tự chủ
quan nào đó. Tuy vậy do cách thức đơn giản, nên chọn mẫu ngẫu nhiên hệ
thống hay được dùng ở cấp chọn mẫu cuối cùng khi tổng thể tương đối
thuần nhất.
Thứ ba, chọn mẫu hệ thống phân tầng
Trong một số trường hợp, đối tượng nghiên cứu được cấu tạo bởi
nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến những đặc điểm muốn nghiên
cứu. Lấy mẫu hệ thống phân tầng dựa trên cơ sở phân chia đối tượng thành
nhiều lớp, mỗi lớp có đặc trưng đồng nhất. Đối với mỗi lớp, người nghiên
cứu thực hiện kỹ thuật lấy mẫu có hệ thống.
Thứ tư, chọn mẫu phân nhóm
Chọn mẫu phân nhóm là phương pháp chọn mẫu trong đó người ta
chia tổng thể ra thành các nhóm có độ thuần nhất cao để chọn ra các phần tử
đại diện cho từng nhóm. Việc phân nhóm có hiệu quả khi tổng thể nghiên
cứu không thuần nhất theo dấu hiệu nghiên cứu. Sau đó trong mỗi nhóm,
người ta chỉ chọn một hay một số phần tử để điều tra.
* Thiết kế bảng hỏi
- Bảng câu hỏi gồm các câu hỏi đưa ra để các cá nhân, đơn vị trở lời.
Kết quả tổng hợp ý kiến trả lời sẽ được xử lí, sử dụng nhằm giải quyết mục
tiêu nghiên cứu đã được đề ra. Do vậy, cần căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu và những nội dung cần điều tra để xây dựng bảng hỏi. Bên cạnh
đó, thiết kế bảng hỏi cần dựa trên việc xác định đối tượng nghiên cứu cũng
27
như các nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng ấy; trình độ học vấn, điều kiện
kinh tế xã hội của người được hỏi; tập quán văn hóa, lối sống … của đối
tượng điều tra.
- Cấu trúc của bảng hỏi
+ Phần mở đầu của bảng hỏi: được bắt đầu bằng việc đặt tên cho bảng
hỏi Tên gọi của bảng hỏi phải phản ánh được nội dung của đề tài nghiên
cứu.Việc chọn những thuật ngữ dùng trong phần mở đầu phụ thuộc vào loại
điều tra, đối tượng của nó, vào các đặc điểm văn hóa của mẫu nghiên cứu...
+ Lời giới thiệu của bảng hỏi: bao gồm: những chỉ dẫn về chủ đề được
khảo sát; Những chỉ dẫn kỹ thuật (chẳng hạn: Bạn hãy đánh dấu gạch chéo
(x) trong ô tương ứng với sự lựa chọn của bạn hoặc ý kiến của bạn…). Lời
giới thiệu không được quá dài và phải dễ hiểu.
+ Các câu hỏi của bảng hỏi: nhằm thu thập thông tin của đề tài nghiên
cứu. Việc sắp đặt những câu hỏi chuẩn bị cho người được hỏi cần có thái độ
cởi mở, tích cực đối với việc nghiên cứu. Việc sắp xếp câu hỏi từ đơn giản
đến phức tạp, từ chung đến riêng. Những câu hỏi sau làm rõ những câu hỏi
trước. Các câu hỏi lọc, câu hỏi chức năng, câu hỏi đơn giản và phức tạp cần
được đặt xen kẽ trong bảng hỏi. Các câu hỏi liên quan đến đặc điểm cá nhân:
giới tính, tuổi, tình trạng gia đình... được đặt ở cuối bảng hỏi để làm cho
người trả lời có cảm giác không bị động chạm đến các vấn đề riêng tư cá
nhân và không làm giảm đi tính khuyết danh của việc trả lời.
+ Phần cuối bảng hỏi : bày tỏ lời cảm ơn người trả lời về sự hợp tác,
tham gia nghiên cứu.
- Các loại câu hỏi
Theo phương án trả lời có câu hỏi đóng, câu hỏi mở và câu hỏi hỗn
hợp
28
+ Câu hỏi đóng: là dạng câu hỏi đã có những phương án trả lời, Bảng
hỏi đã đưa ra một vài câu trả lời khác nhau. Người được hỏi lựa chọn câu trả
lời phù hợp với ý kiến của họ. Câu hỏi đóng có các loại: câu hỏi đối cực, câu
hỏi cường độ, câu hỏi tuyển…Câu hỏi đối cực (hay câu hỏi loại trừ), các
phương án trả lời có giá trị đối nghịch như có/ không; tán thánh/ không tán
thành... Đây là loại câu hỏi khá phổ biến trong bảng hỏi.
Câu hỏi cường độ nhằm mục đích xác định ở mức độ phản ứng của
cá nhân, tính chất của các thái độ với vấn đề cần nghiên cứu. Câu trả lời của
loại câu hỏi này được phân chia theo cách mức độ khác nhau tương ứng với
ý kiến của người được hỏi. Chẳng hạn: rất tốt/ khá tốt/ bình thường/ yếu/
kém.
Câu hỏi tùy chọn (còn gọi là câu hỏi tuyển). Người trả lời có thể lựa
chọn một số phương án đã được đưa ra, khả năng trả lời không loại trừ lẫn
nhau. Ví dụ: Trong số các môn học sau đây, bạn thích học môn học nào?
Phương án trả lời: tâm lý học/ xã hội học/ triết học/ ngoại ngữ/ tin học…
Câu hỏi tùy chọn có ý nghĩa quan trọng trong điều tra nhằm nắm tình hình tư
tưởng, nguyện vọng của đối tượng.
Câu hỏi đóng giúp cho người được hỏi thuận tiện, nhanh chóng trong
lựa chọn phương án trả lời. Loại câu hỏi này cũng dễ tổng hợp, xử lý và sử
dụng kết quả. Song để có câu hỏi đóng đảm bảo chất lượng đỏi hỏi người
soạn bảng hỏi hiểu biết về đối tượng, bao quát một cách đầy đủ nhất các
phương án trả lời.
+ Câu hỏi mở là câu hỏi không có phương án trả lời, do người được
hỏi tự trả lời. Chúng cho phép người được hỏi thông tin một cách tốt nhất
suy nghĩ của họ về một vấn đề. Số lượng thời gian, chỗ trống hoặc số dòng
dành cho câu trả lời về mỗi câu hỏi giúp cho người được hỏi xác định rằng,
người ta muốn nhận được từ bản thân mình câu trả lời dài và cặn kẽ tới mức
29
nào. Ví dụ: Bạn có đề nghị gì cho việc nâng cao chất lượng học tập của sinh
viên hiện nay?
Ưu điểm của câu hỏi mở là thu được lượng thông tin phong phú,
không bị ảnh hưởng bởi sự áp đặt của người nghiên cứu về các câu trả lời,
người nghiên cứu không bị động, có thể thu được những câu trả lời không
dự đoán từ trước, thường dùng cho các nghiên cứu dự đoán, phát hiện và
những vấn đề mà người nghiên cứu chưa biết đầy đủ.
+ Câu hỏi hỗn hợp là loại câu hỏi bao gồm cả thành phần của câu hỏi
mở và câu hỏi đóng, có đưa ra một số lượng nhất định các phương án trả lời.
Chẳng hạn: Vì sao anh (chị) chọn nghề giáo? Các phương án trả lời: vì yêu
trẻ/ vì nghề được xã hội tôn vinh/ vì truyền thống gia đình/ lý do khác.
Câu hỏi hỗn hợp có ưu điểm là người trả lời không bị áp đặt ý kiến,
ngoài các phướng án trả lời do người nghiên cứu đưa ra, người được hỏi có
cơ hội trả lời, bổ sung đầy đủ hơn về vấn đề nghiên cứu.
Theo cách hỏi, các câu hỏi được biểu hiện dưới dạng trực tiếp và gián
tiếp. Câu hỏi trực tiếp là cách hỏi thẳng ngay vào vấn đề. Câu hỏi gián tiếp
là những câu hỏi không trực tiếp thu thập những thông tin cần thiết do đụng
chạm đến mối quan hệ nào đó của cá nhân hoặc liên quan với những vấn đề
tế nhị. Chẳng hạn, để biết ý kiến về năng lực của giám đốc công ty nơi người
được hỏi làm việc có thể đặt câu hỏi: dư luận công ty đánh giá thế nào về
năng lực lãnh đạo của giám đốc công ty của họ?
c. Quy trình điều tra bảng hỏi
Điều tra bằng bảng hỏi cần được tiến hành theo quy trình: chuẩn bị
điều tra, điều tra và xử lý số liệu điều tra.
Bước 1: Chuẩn bị điều tra
Trong giai đoạn chuẩn bị điều tra, nhà nghiên cứu cần xác định mục
tiêu điều tra, phạm vi và mức độ thu thập thông tin. Bên cạnh đó, cần lập kế
30
hoạch điều tra, tổ chức nguồn nhân lực, chuẩn bị điều kiện vật chất, phương
tiện, chọn mẫu điều tra và hoàn thành bảng hỏi.
Bước 2: Tiến hành điều tra
Một cuộc điều tra được thực hiện theo các ba bước.
Một là, điều tra thử trên một phạm vi nhỏ nhằm kiểm tra tính hợp lý
và khả năng thu thập thông tin từ bảng hỏi, tính toán chi phí, điều chỉnh
nhân lực…
Hai là, trưng tập, tập huấn cho cán bộ điều tra.
Ba là, triển khai điều tra theo kế hoạch. Khi tiến hành điều tra là, cần
tổ chức giám sát người đi điều tra sao cho đảm bảo yêu cầu điều tra đúng đối
tượng, đúng số người định hỏi theo kế hoạch, nắm bắt những khó khăn gặp
phải trong quá trình điều tra.
Bước 3: Xử lý số liệu
Kết thúc công việc điều tra, nhà nghiên cứu tiến hành tập hợp bảng
hỏi. Bảng hỏi thu được cần được sắp xếp cẩn thận và tiến hành phân loại
(theo khu vực điều tra, theo đối tượng điều tra…)
kiểm tra, đánh giá độ tin cậy của số liệu điều tra thu được.
Kiểm tra bảng hỏi là công việc cần thiết trước khi xử lý số liệu. Công
đoạn này giúp nhà nghiên cứu xác định lại độ tin cậy của quá trình điều tra,
mức độ sử dụng thông tin trong các phiếu hỏi và đánh giá khả năng của điều
tra viên.
Thông thường, điều tra bằng bảng hỏi thực hiện với nhiều người, số
lượng câu hỏi lớn. Do đó cần mã hóa các câu trả lời, chuyển các câu trả lời
đó ra một ngôn ngữ xác định gọi là mã để có thể thích hợp với việc xử lý
bằng máy tính.
Cuối cùng, nhà nghiên cứu lựa chọn các phương pháp mô tả số liệu
phù hợp với ý đồ nghiên cứu. Nhà khoa học viết và hoàn thành bản báo cáo
31
tổng hợp kết quả điều tra theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Bản
báo cáo này có thể được công bố dưới dạng sản phẩm trung gian của đề tài
nghiên cứu.
2. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp thu nhận thông tin của các
chuyên gia về vấn đề khoa học nhà nghiên cứu quan tâm.
Thực chất của phương pháp này là khai thác ý kiến đánh giá của các
chuyên gia - người có trình độ và mức am hiểu cao về một vấn đề khoa học
để tìm giải pháp tối đa cho việc giải quyết vấn đề ấy. Phương pháp chuyên
gia không chỉ cần thiết trong thực hiện công trình nghiên cứu mà còn có vai
trò quan trọng trong nghiệm thu, đánh giá kết quả nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp chuyên gia có ý nghĩa kinh tế, tiết kiệm thời gian, tài
chính. Song do kết quả thu được của phương pháp này là những ý kiến có
phần chủ quan của người được khai thác trí tuệ nên nhà nghiên cứu nên phối
hợp phương pháp này với các phương pháp khác trong nghiên cứu.
Để sử dụng có hiệu quả phương pháp chuyên gia, nhà nghiên cứu cần
lựa chọn đúng chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm về lĩnh vực nghiên cứu.
Đồng thời lựa chọn những vấn đề cần tham vấn với những mục đích cụ thể
để sử dụng chuyên gia phù hợp.
Phương pháp chuyên gia có nhiều hình thức, trong đó có phương pháp
phỏng vấn và phương pháp hội đồng.
a. Phương pháp phỏng vấn
- Khái niệm và đặc điểm
Phỏng vấn là một phương pháp đối thoại để thu thập thông tin trực
tiếp từ người trả lời về những vấn đề lien quan đến đề tài nghiên cứu.
Phỏng vấn có khả năng đem lại thông tin sâu, thông tin phản ánh quan
điểm của người được hỏi. Người nghiên cứu có thể nắm bắt, gợi mở, thăm
32
dò, khai thác thêm những thông tin cần thiết trong quá trình tiếp xúc trực
tiếp với đối tượng. Đồng thời, thông qua quá trình phỏng vấn, nhà nghiên
cứu có thể kiểm tra độ trung thực, tính tin cậy trong thông tin mà người
được phỏng vấn trình bày.
Song chất lượng và hiệu quả một bài phỏng vấn nghiên cứu phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như năng lực của người phỏng vấn, bối cảnh
diễn ra cuộc phỏng vấn và những yếu tố thuộc về đối tượng phỏng vấn.
- Các loại phỏng vấn
Có nhiều loại phỏng vấn, có thể phân ra ba loại cơ bản
Phỏng vấn với câu hỏi in sẵn
Đây là loại phỏng vấn có cấu trúc chặt chẽ với một bảng câu hỏi in
sẵn và với sự hiện diện của người phỏng vấn. Người này có nhiệm vụ hướng
dẫn trả lời các câu hỏi. Người được phỏng vấn đọc các câu hỏi và viết câu
trả lời.
Phỏng vấn điều tra
Các câu hỏi trong loại này là những câu hỏi trực tiếp và những câu trả
lời thường là "có", "không" hay những câu phát biểu ngắn về tuổi, nghề
nghiệp, số người trong gia đình và các câu hỏi khác đòi hỏi những câu trả lời
giới hạn. Các phỏng vấn loại này thường rất đáng tin cậy, nhưng phạm vi
thông tin thu thập được tương đối chật hẹp.
Phỏng vấn tự do
Phỏng vấn tự do là loại phỏng vấn không theo một cấu trúc chặt chẽ
về cách đặt câu hỏi cũng như trả lời. Người phỏng vấn khéo léo dẫn dắt dần
dần người được phỏng vấn đền vấn đề mình đang muốn tìm hiểu. Có một số
khía cạnh của vấn đề được khai thác đầy đủ hơn khía cạnh khác; một số khía
cạnh khác được thêm vào hay có thể làm thay đổi phạm vi của cuộc nghiên
cứu. Loại phỏng vấn tự do thường được dùng để tìm hiểu thái độ, ý kiến của
33
người được hỏi. Vì không có cấu trúc sẵn, nên hiệu năng của phương pháp
này tùy thuộc vào tài năng và kinh nghiệm của người phỏng vấn.
- Phương pháp thực hiện
Phỏng vấn cần thực hiện theo quy trình: từ lựa chọn đối tượng, chuẩn
bị, tiến hành phỏng vấn và xử lý kết quả phỏng vấn.
Lựa chọn và tập huấn người phỏng vấn. Phỏng vấn là phương pháp
đối thoại, dưới sự dẫn dắt của người phỏng vấn để thu nhận thông tin. Do
vậy khi lựa chọn người thực hiện phỏng vấn cần chú ý về năng lực và kỹ
năng. Trong đó, người phỏng vấn cần hiểu rõ mục đích của cuộc phỏng vấn
mà họ thực hiện, có khả năng quan sát, hiểu biết tâm lý và kỹ năng giao tiếp
cần thiết để cuộc phỏng vấn có được kết quả mong đợi. Bảng câu hỏi phỏng
vấn cần được thảo luận kỹ trong nhóm nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung sao cho
nội dung các câu hỏi đạt được mục đích cao nhất trong thu nhận thong tin.
Người phỏng vấn cần hiểu rõ mục đích của từng câu hỏi. Trong trường hợp
cần thiết, cần tổ chức phỏng vấn thử để hiệu chỉnh câu hỏi, phương pháp
hỏi.
Người phỏng vấn không chỉ hiểu mục đích của mình trong cuộc
phỏng vấn mà cần hiểu về đối tượng phỏng vấn, biết lựa chọn địa điểm, thời
gian phỏng vấn một cách phù hợp. Người phỏng vấn cần chủ động trong
suốt quá trình phỏng vấn, làm chủ tình huống và giải quyết chúng một cách
hiệu quả.
Trong suốt quá trình thực hiện người phỏng vấn cần lưu ý đến việc
xây dựng và duy trì bầu không khí tôn trọng, thoải mái. Đồng thời cần linh
hoạt và chủ động hướng trả lời của người được phỏng vấn vào nội dung
trọng tâm của cuộc phỏng vấn.
Đặt câu hỏi là một kỹ thuật của phỏng vấn để thu thập thong tin. Bên
cạnh các câu hỏi trực tiếp nhằm thu nhận thông tin ngắn gọn, câu hỏi gián
34
tiếp cũng giúp cho người phỏng vấn duy trì cuộc đối thoại, đồng thời qua đó
có thể kiểm tra được mức độ chân thực của thông tin.
Ghi chép trong phỏng vấn là yêu cầu mang tính kỹ thuật. Việc ghi
chép cần thực hiện sao cho lưu giữ thong tin của người trả lời nhanh nhất,
đầy đủ nhất mà không ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý người được phỏng
vấn, nhịp độ phỏng vấn, không làm gián đoạn quá trình phỏng vấn. Trong
điều kiện hiện nay, có thể sử dụng thiết bị ghi âm để hỗ trợ. Tuy nhiên, ghi
chép vẫn có tính hiệu quả nhất định.
b. Phương pháp hội đồng
Trong phương pháp hội đồng, nhà nghiên cứu đưa ý kiến trước các
chuyên gia để họ thảo luận, tranh luận, phân tích. Người nghiên cứu ghi
nhận lại những ý kiến ấy để nghiên cứu, phân tích. Trong phương pháp hội
đồng, người ta dung phương pháp công não. Phương pháp này gồm hai giai
đoạn tách biệt nhau: giai đoạn phát ý tưởng và giai đoạn phân tích ý tưởng.
Để phương pháp này được thực hiện hiệu quả, người tổ chức thực hiện cần
tạo nên bầu không khí tự do tư tưởng, giúp các chuyên gia thoải mái tinh
thần, không có bất kỳ một sự hạn chế nào về ý tưởng được phát ra. Đồng
thời, nhà nghiên cứu cần lắng nghe mọi ý kiến của chuyên gia.
Phương pháp này có ưu điểm là tạo ra bầu không khí tranh luận, thu
nhận nhiều ý kiến chuyên sâu về một vấn đề, bao gồm cả các ý kiến trái
chiều. Song phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định. Những lý
do dẫn đến hạn chế của kết quả thu được từ phương pháp này là những tác
động tâm lý của các chuyên gia hay sự ảnh hưởng của một hoặc một số
chuyên gia có uy tín lớn, những người có tài hung biện đến ý kiến chung của
hội đồng.
Tổ chức lấy ý kiến trong các hội nghị bàn tròn, tọa đàm hay hội thảo
khoa học… là những dạng khác nhau của phương pháp này.
35
3. Phương pháp thống kê và tổng kết thực tiễn
a. Phương pháp thống kê
Thống kê là một hệ thống các phương pháp bao gồm thu thập, tổng
hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu
nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá về một sự vật hiện tượn dự
đoán về xu hướng vận động và phát triển của sự vật hiện tượng ấy.
Trong nghiên cứu khoa học xã hội, thống kê được thực hiện trên cơ sở
phản ánh sự biến thiên về lượng của các hiện tượng, quá trình xã hội hay các
yếu tố hợp thành các hiện tượng quá trình ấy. Thống kê biểu hiện mặt lượng
của hiện tượng xã hội, song thông qua mặt lượng kết quả thống kê thể hiện
mặt chất sự vận động của các hiện tượng hay quá trình xã hội. Thống kê
được thực hiện trong khoảng thời gian nhất định. Thống kê là phương pháp
sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn nói riêng.
b. Phương pháp khảo sát thực tiễn
Là phương pháp thông qua nghiên cứu thực tiễn để thu thập thông tin
nhằm đánh giá tình hình thực tế, hoặc nhằm kiểm chứng một giả thuyết
nghiên cứu sau khi áp dụng vào thực tiễn.
Phương pháp khảo sát thực tiễn cho kết quả là những tri thức (định
tính hoặc định lượng) về sự vận động và phát triển của thực tiễn qua một
giai đoạn, trong một bối cảnh xác định. Kết quả của quá trình khảo sát thực
tiễn mới là thong tin ban đầu. Trong nghiên cứu khoa học, những phản ánh
dưới dạng thong tin ban đầu ấy cần phải trải qua việc phân tích, xử lý, chọn
lọc…để xây dựng giả thuyết khoa học, sử dụng làm luận cứ cho công trình
nghiên cứu.
36
Trong quy trình khảo sát thực tiễn, trước hết phải xác định rõ mục tiêu
chính của cuộc khảo sát, các mục tiêu cụ thể và mức độ đạt được. Trên cơ sở
đó, nhà nghiên cứu cần xác định rõ địa bàn khảo sát. Thành công của
phương pháp khảo sát thực tiễn thể hiện ở việc xác định được địa bàn khảo
sát cụ thể, đặc trưng, điển hình.
Nội dung khảo sát do yêu cầu về nội dung nghiên cứu đề tài quy định.
Các nội dung khảo sát cần xác định cụ thể, sát với thực tiễn, có tính khả thi
trong điều kiện nghiên cứu xác định. Lựa chọn nội dung khảo sát phải đảm
bảo vừa tránh sự lan man, trừu tượng, chung chung, vừa không rơi vào việc
khảo sát các nội dung vụn vặt, thiếu tính khái quát.
Phương pháp khảo sát thực tiễn thường áp dụng nhằm tổng kết kinh
nghiệm, nhân rộng mô hình xã hội, đề ra biện pháp tổ chức quản lý xã hội
hợp lý và hiệu quả.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Phương pháp nghiên cứu và vai trò của phương pháp trong nghiên cứu
khoa học.
2. Phương pháp luận và các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học
3. Yêu cầu của phương pháp nghiên cứu tài liệu khoa học.
4. Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học
5. Các phương pháp thực nghiệm phân loại theo diễn trình thời gian tiến
hành thực nghiệm.
6. Các phương pháp thực nghiệm phân loại theo nơi tiến hành thực nghiệm.
37
7. Các phương pháp thực nghiệm theo mục đích và phương thức tiến hành
thực nghiệm.
8. Đặc điểm của các phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm .
9. Yêu cầu của phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
10. Yêu cầu của phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
THỰC HÀNH
1. Thực hiện phân tích một tài liệu khoa học
2. Thực hiện tóm tắt một tài liệu khoa học.
3. Viết báo cáo tổng quan kết quả nghiên cứu về một chủ đề khoa học.
4. Trình bày giả thuyết nghiên cứu và mô tả cách thức tiến hành giả định
phương pháp thực nghiệm song hành.
5. Trình bày giả thuyết nghiên cứu và mô tả cách thức tiến hành giả định
phương pháp thực nghiệm đối nghịch.
6. Trình bày giả thuyết nghiên cứu và mô tả cách thức tiến hành giả định
phương pháp thực nghiệm đối chứng.
7. Lựa chọn một vấn đề khoa học và tiến hành phỏng vấn giả định nhằm
thu thập thông tin về vấn đề khoa học ấy.
8. Lựa chọn một vấn đề khoa học và xây dựng bảng hỏi nhằm thu thập
thông tin về vấn đề khoa học ấy.
38