Crime & Punishment

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

Some people believe that crime is a result of social problems and

poverty, others think that crime is a result of bad person’s nature.


Discuss both views and give your own opinion.

Dàn ý

Planning the ideas


Based on our identification of the key words, our plan will be something like this:
 Introduce idea:  many people think crime is a result of the bad nature of some
individuals.  My own opinion – I agree with those who think that it is a result of social
conditions. 
 Paragraph 2:  [View I disagree with]
o [1] cruel people commit crime – example: children who bully others at school
often become violent criminals later in life.
o [2] lazy and greedy people commit crime to get what they want without working
hard – example: stealing from others.
 Paragraph 3:  [View I agree with]
o [1] social problems lead to crime – example:  unemployment
o [2] poverty also leads to crime – people who don’t have enough money steal, or
rob others, in order to survive.
 Conclusion:  repeat using some different words.
Many people consider that innate characteristics are responsible for the fact that some people
choose to turn to a career of crime.  While I accept that crime may result from individual
characteristics of violence or greed, I would argue that it is largely a consequence of social issues
and poverty.
 
There is a belief that a person’s nature determines whether or not they become a criminal.  [1]
Firstly, some argue that an individual who is cruel turns to crime more easily than a kind person. 
For instance, a child bullying ther boys or girls at school may turn into a violent criminal in the
future.  [2] Secondly, bad characteristics such as laziness or selfishness could also breed future
offenders, who seek to acquire easy money without working for it.  A number of youngsters
choose to steal from others, instead of working hard to make an honest living.  These are strong
reasons for thinking that those who have an inborn bad nature are more likely to break the law.
 
Nevertheless, it seems to me that social issues and poverty are the main causes behind crime. 
There are many problems in society which might lead to an increase in the crime rate.  [1] For
example, unemployment pushes people into resorting to crime  because they simply cannot find
a job.  As a consequence, the number of offenders has climbed in many countries over recent
decades.  [2] Another reason is that, more broadly, poverty in general leads to a rise in crime.  If
people do not have enough money to make ends meet, they will be tempted to pursue illegal
activities just to support themselves and their families.
 
In conclusion, although both views certainly have some validity, it seems to me that the principal
causes of crime are a result of social conditions and problems.

Bản dịch

Nhiều người cho rằng tính cách bẩm sinh là nguyên nhân khiến cho con người ta trở thành tội
phạm. Trong khi tôi đồng ý rằng tội phạm có thể là do tính cách cá nhân như hành động bạo lực
hay lòng tham, tôi cho rằng phần lớn nguyên nhân là do các vấn đề xã hội và sự nghèo đói.
Người ta tin rằng bản chất một con người quyết định họ có trở thành tội phạm hay không. Trước
hết, một số người cho rằng một cá nhân có tính cách độc ác dễ trở thành phạm nhân hơn một
người tốt. Ví dụ, một đứa trẻ bắt nạt những cô cậu bé khác ở trường có thể trở thành một tội
phạm bạo lực trong tương lai. Thứ hai, tính cách xấu như lười biếng hay ích kỷ có thể nuôi
dưỡng mầm mống tội phạm, những kẻ muốn kiếm tiền bẩn mà không cần phải lao động. Một số
thanh niên trẻ chọn cách trộm cắp từ những người khách thay vì lao động cật lực để lao động
chân chính. Có nhiều lý do để cho rằng những người có tính cách xấu xa bẩm sinh có khả năng
phạm tội nhiều hơn.
Tuy nhiên, theo tôi thì những vấn đề xã hội và sự nghèo đói mới là những lý do chính đằng sau
những tội ác. Có rất nhiều vấn đề trong xã hội có thể dẫn đến sự gia tăng tỉ lệ tội phạm. Ví dụ,
nạn thất nghiệp thúc đẩy con người ta buộc phải phạm tội bởi họ đơn giản là không có khả năng
tìm một công việc. Do đó, số lượng tội phạm đã và đang gia tăng ở nhiều quốc gia trong nhiều
thập kỷ qua. Một lý do khác, nói rộng ra, sự nghèo đói nhìn chung đã gây nên sự gia tăng tội
phạm. Nếu con người ta không có đủ tiền để trang trải cuộc sống, họ sẽ bị cám dỗ đi theo những
hoạt động trái pháp luật chỉ để nuôi sống bản thân và gia đình.
Tóm lại, mặc dù cả hai quan điểm đều có lý, theo tôi nguyên nhân chủ yếu của tội ác đó là các
điều kiện và vấn đề xã hội.

Prison is the common way in most countries to solve the problem of


crime. However, a more effective solution is to provide people with a
better education. Agree or disagree.

Dàn ý

 Introduction:  refer to statement and give opinion – disagree.


 Paragraph 2:  Prison can help to reduce crime [1] prison deters criminals – example:
murderers [2] offenders in prison cannot be a danger to the public
 Paragraph 3:  Education can also help to reduce crime [1] in schools – give students
some knowledge of the law – example: drugs [2] education in prison – help to stop re-
offending.
 Conclusion:  repeat introduction, using some different words.
 
Dàn ý bài viết:
 Mở bài: nhắc lại đề bài và đưa ra ý kiến – không đồng ý.
 Đoạn văn 2: Nhà tù góp phần vào việc giảm bớt tội phạm [1] nhà tù làm cản trở những
người phạm tội – ví dụ: kẻ giết người [2] người phạm tội ở trong tù không thể là mối
nguy hại với cộng đồng
 Đoạn văn 3: Giáo dục cũng góp phần làm giảm bớt tội phạm [1] trong trường học – phổ
biến cho sinh viên các kiến thức về luật pháp – ví dụ: ma túy [2] giáo dục trong nhà tù –
góp phần hạn chế việc tái phạm.
 Kết luận: nhắc lại mở bài, dùng cách viết khác
Many people believe that the reduction of the crime rate will be achieved more effectively
through better education rather than prison sentences.  I disagree with this view, because I
consider that both approaches have their own distinctive merits and should each play an
integral role in tackling crime.
 
On the one hand, I would argue that prison is effective in dealing with offenders.  One reason is
that a person who commits a crime must learn that unlawful actions have consequences. 
Murderers, for instance, must be imprisoned for many years and such a punishment may act as
a deterrent.  They know that they will face loss of freedom, social isolation and separation from
their loved ones if they carry out such a criminal act.  Another reason is that when serious
offenders are behind bars, they are no longer a danger to society and people can walk in the
streets or relax in their homes more safely.
 
On the other hand, I consider that education has a complementary role to play.  Firstly, in
schools, students should study some aspects of the law which affect their lives.  Having some
knowledge of the law, students are better prepared to avoid situations which may involve them in
crime or becoming a victim.  For example, youngsters must study the important laws about
driving and road safety.Secondly, in prisons themselves, educational programmes must aim to
provide prisoners with skills and qualifications to find work when they are released.
 
I believe that prison sentences are one essential weapon in the fight against crime, and I disagree
that providing better education alone is a more effective solution to reduce the crime rate. 

Bản dịch

Nhiều người cho rằng việc giảm bớt tỷ lệ phạm tội sẽ hiệu quả hơn nếu áp dụng nâng cao nền
tảng giáo dục hơn là việc kết án tù giam. Tôi không đồng ý với quan điểm này, bởi tôi thấy rằng
hai phương án đều có những ưu điểm riêng và phương án nào cũng đóng góp một phần không
thể thiếu được trong việc ngăn chặn tội phạm.
Một mặt, tôi cho rằng nhà tù rất hiệu quả trong việc xử lý những người phạm tội. Lý do đầu tiên
đó là một người khi phạm tội sẽ nhận thức được những hành động phạm pháp đều phải chịu hậu
quả. Ví dụ những kẻ giết người sẽ bị bỏ tù nhiều năm và một mức án như vậy đóng vai trò như
một rào cản. Họ biết rằng họ sẽ phải đối mặt với việc mất tự do, bị xã hội xa lánh và cô lập bởi
những người xung quanh nếu họ vi phạm. Một lý do khác đó là khi những người phạm tội
nghiêm trọng bị giam giữ lại, họ không còn là mối nguy hại với xã hội và mọi người có thể đi bộ
tự do trên phố hay thư giãn trong nhà an toàn hơn.
Mặt khác, tôi nhận thấy giáo dục cũng đóng một vai trò bổ sung. Đầu tiên, ở những trường học,
sinh viên cần được học về một số điều luật cơ bản liên quan tới cuộc sống hàng ngày. Khi đã
nắm được luật, họ sẽ được chuẩn bị kỹ càng hơn để tránh được những tình huống có thể đưa họ
vào vòng lao lý hoặc trở thành nạn nhân. Ví dụ, thanh niên hiện nay cần học những điều luật
quan trọng về lái xe và an toàn trên đường phố. Thứ hai, với những tù nhân, cần có những
chương trình giáo dục tập trung vào việc cung cấp cho họ những kỹ năng và trình độ cần thiết để
tìm được việc làm khi họ được ra ngoài.
Tôi tin rằng các mức án tù giam là một vũ khí cần thiết để chống lại tội phạm, và tôi không đồng
tình với ý kiến rằng chỉ đơn thuần với một nền tảng giáo dục tốt hơn sẽ là một biện pháp hiệu
quả hơn để giảm bớt tỷ lệ phạm tội.

The only way to improve road safety is to give much stricter


punishments on driving offenses. To what extent do you agree or
disagree?

Dàn ý

 Introduction: stricter punishments are necessary.  They are not the only way to improve
road safety – there are other effective measures. So, disagree with the statement.
 Paragraph 2:  stricter punishments will be effective – motoring offenses are crimes. 
Non-custodial sentences – heavy fines, driving bans.  Prison sentences – serious offences
e.g. drinking and driving (UK example).
 Paragraph 3:  additional measures (1) install speed cameras (2) traffic calming (3)
vehicle inspections.
 Conclusion:  repeat opinion that harsher penalties and other measures are necessary.
Dàn bài:
 Mở bài: các hình phạt nặng hơn là cần thiết. Chúng không phải là cách duy nhất để cải
thiện an toàn đường bộ - còn có những biện pháp hữu hiệu khác. Vì vậy, không đồng ý
với tuyên bố.
 Đoạn 2: các hình phạt nghiêm khắc hơn sẽ có hiệu quả - vi phạm khi di chuyển là tội
phạm. Các án không giam giữ - phạt nặng, cấm lái xe. Các án tù - tội nghiêm trọng, ví dụ:
uống rượu và lái xe (ví dụ ở Anh).
 Đoạn 3: các biện pháp bổ sung (1) lắp đặt camera tốc độ (2) làm dịu lưu thông trên
đường (3) giám sát phương tiện.
 Kết luận: lặp lại ý kiến rằng hình phạt nặng hơn và các biện pháp khác là cần thiết.
It is true that stricter punishments will deter many motorists from driving dangerously or
carelessly on the roads.  However, I strongly disagree that this is the only way to improve road
safety, because there are alternative measures which would also be effective.
Stricter punishments will undoubtedly act as a deterrent, so that motorists will think twice
before committing traffic offenses.  It is often forgotten that motoring offenses are, in fact,
crimes.  The full weight of the law should be applied in imposing a range of non-custodial
sentences, such as heavy fines, and the confiscation of driving licences. The letter of the
law must be strictly implemented, banning offenders from the roads so they will no longer pose a
danger to other road-users, including pedestrians.  Those who drive while
intoxicated should serve a prison sentence, as is sometimes imposed in the UK, because they
endanger innocent lives.
While harsh penalties for offenders should be high on the government agenda, there are other
steps which national and local authorities should take to improve road safety. 
Firstly, installing speed cameras has made drivers aware of the need to adhere to speed limits. 
Many authorities around the world have adopted this very cost-effective measure. 
Secondly, traffic calming measures have succeeded in reducing the number of accidents,
especially in built-up areas.  Finally, it is necessary to adopt a policy of conducting regular
vehicle inspections, at authorised centres, to avoid accidents caused by mechanical failures.
In conclusion, in order to improve road safety, it is not enough to be tough on traffic crimes by
punishing more harshly those who violate the law.  A range of road safety measures should
accompany harsher driving penalties.

Bản dịch

Đúng là những hình phạt nghiêm khắc sẽ ngăn cản nhiều người lái xe khỏi việc lái xe nguy hiểm
hoặc bất cẩn trên đường. Tuy nhiên, tôi rất không đồng ý rằng đây là cách duy nhất để cải thiện
an toàn giao thông, bởi vì có những biện pháp thay thế khác cũng sẽ có hiệu quả.
Các hình phạt nghiêm khắc chắc chắn sẽ hoạt động như một rào cản để người lái xe sẽ suy nghĩ
kỹ trước khi vi phạm giao thông. Người ta thường quên rằng hành vi phạm khi vận động, trên
thực tế, là tội phạm. Phải áp dụng toàn bộ sức nặng của luật pháp trong việc đưa ra một loạt các
án phạt không giam giữ, chẳng hạn như phạt nặng và tịch thu giấy phép lái xe. Các điều khoản
của pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh, cấm người phạm tội ra đường để họ sẽ không
còn gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông đường bộ khác, kể cả người đi bộ.
Những người lái xe trong khi say xỉn nên thụ án tù, đôi khi được áp dụng ở Anh, vì họ gây nguy
hiểm cho những người dân vô tội.
Trong khi các hình phạt khắc nghiệt đối với người phạm tội nên được chính phủ ưu tiên giải
quyết, có các bước khác mà chính quyền địa phương và nhà nước cần thực hiện để cải thiện an
toàn giao thông đường bộ. Thứ nhất, cài đặt camera theo dõi tốc độ đã làm cho người lái xe nhận
thức được sự cần thiết phải tuân theo giới hạn tốc độ. Nhiều cơ quan chức năng trên khắp thế
giới đã áp dụng biện pháp rất hiệu quả này. Thứ hai, các biện pháp làm dịu giao thông đã thành
công trong việc giảm số vụ tai nạn, đặc biệt là ở các khu vực đang xây dựng. Cuối cùng, việc phê
chuẩn chính sách tiến hành kiểm tra xe thường xuyên là cần thiết, tại các trung tâm được ủy
quyền, để tránh tai nạn gây ra bởi lỗi cơ khí kĩ thuật.
Tóm lại, để cải thiện an toàn giao thông đường bộ, việc gây áp lực lên các tội phạm giao thông
bằng cách trừng phạt những người vi phạm pháp luật nặng hơn thì chưa đủ. Một loạt các biện
pháp an toàn đường bộ nên được đi kèm với hình phạt lái xe khắc nghiệt hơn.

Research suggests that the majority of criminals who are sent to prison
commit crimes when set free. What are the reasons? What can be done
to solve the problem?

Dàn ý

 Introduction:  refer to the task question; state that there are important reasons, but also
possible solutions
 Paragraph 2:  reason 1 – prison as punishment, not rehabilitation; reason 2 – influence
of dangerous criminals on other offenders
 Paragraph 3:  solution 1 – provide education/training in prison to help ex-offenders find
jobs;  solution 2 – isolate dangerous criminals who will encourage others to re-offend
 Conclusion:  there are important reasons, but solutions are possible.
Dàn bài:

 Mở bài: dẫn vào đề bài; trình bày rằng có những lý do đáng lưu ý, nhưng cũng có các
giải pháp khả thi.
 Đoạn 2: lý do 1 – nhà tù là sự trừng phạt, không phải trại cải tạo; lý do 2 – sự ảnh hưởng
của những tội phạm nguy hiểm với những kẻ phạm tội khác.
 Đoạn 3: giải pháp 1 – cung cấp giáo dục/ đào tạo trong tù để giúp những người từng
phạm tội tìm công ăn việc làm; giải pháp 2 – cô lập những tù nhân nguy hiểm mà lôi kéo
những người khác tái phạm.
 Kết luận: có những lý do đáng lưu ý, nhưng vẫn có các giải pháp khả thi.

It is true that a large proportion of criminals are known to re-offend after they have been
released from prison.  There are some important reasons for this return to a life of crime, but
there are solutions which could mitigate the problem.
 
I believe that there are two principal reasons why many criminals who have served their
sentences, commit further crimes when they are released back into society.  Firstly, prison is
popularly regarded as an institution whose purpose is to punish wrongdoers. There is a public
outcry against  being soft on crime, and many argue that only the full weight of the
law will act as a deterrent, even though this is obviously not working. As a result,
few resources are allocated to prison programmes which will help ex- offenders to make a
fresh start in society. Secondly, prisons are overcrowded and often violent places, in which the
most hardened criminals influence and intimidate other inmates, and form networks to plan
future crimes, such as a criminal prison gang called the PCC do in Brazil.
 
Steps should be taken to solve these problems.  One solution is reintegrating offenders back
into the community.  Programmes which provide vocational training or academic study
opportunities must be implemented in order to give prisoners a chance of rehabilitation and to
find work.  Some universities in the UK and the USA, for example, offer degree programmes to
enable offenders to gain qualifications. Another solution is to segregate the most
dangerous convicts, in order to prevent intimidation and bullying in prisons, from which
offenders are released as even more expert criminals.
 
In conclusion, while important reasons for the rate of re-offending can be identified, some steps
must be taken to implement workable solutions.
 
Bản dịch

Quả thật, có một tỷ lệ đáng kể tội phạm tái phạm sau khi ra tù. Có một số lý do chính cho việc tái
phạm, đồng thời vẫn có những giải pháp giúp xoa dịu vấn đề này.
Tôi tin rằng có hai nguyên nhân chính giải thích tại sao những tội phạm từng nhận án tù tiếp tục
tái phạm sau khi được trao trả tự do. Trước hết, nhà tù được biết đến rộng rãi là nơi thành lập với
mục đích trừng trị những kẻ phạm tội. Công chúng kịch liệt phản đối việc nương tay với tội
phạm, và nhiều người tranh luận rằng chỉ việc thi hành luật pháp nghiêm minh mới mang tính
răn đe, mặc dù rõ ràng điều này không đem lại hiệu quả. Do đó, ngân quỹ cho các chương trình
dành cho tù nhân mà giúp họ làm lại cuộc đời vô cùng hạn hẹp. Thứ hai, các nhà tù đang quá tải
và thường là những địa điểm bạo lực, nơi mà những phạm nhân cứng đầu nhất tác động và đe
dọa bạn tù và hình thành các mạng lưới để lên kế hoạch phạm tội trong tương lai, điển hình như
một băng nhóm tù nhân với tên gọi PCC ở Brazil.
Các biện pháp cần được thực hiện để giải quyết những vấn đề này. Giải pháp thứ nhất là tái hòa
nhập người có tiền án với cộng đồng. Những chương trình đào tạo nghề nghiệp hoặc đem lại cơ
hội học tập phải được tiến hành để cho các tù nhân cơ hội cải tạo và tìm kiếm việc làm. Ví dụ,
một vài trường đại học ở Anh và Mỹ cung cấp các chương trình cấp bằng để khuyến khích người
từng phạm tội lấy được bằng cấp. Một giải pháp khác là tách riêng những tù nhân nguy hiểm
nhất để ngăn chặn việc đe dọa và bắt nạt trong tù, nơi mà các phạm nhân được thả ra thậm chí
còn trở thành tội phạm chuyên nghiệp hơn.
Tóm lại, mặc dù ta có thể phát hiện vài lí do chính cho tỉ lệ tái phạm, ta cần tiến hành thực hiện
một số giải pháp khả thi.

You might also like