Bước tới nội dung

Zlatko Dalić

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Zlatko Dalić
Dalić huấn luyện Croatia tại FIFA World Cup 2018
Thông tin cá nhân
Ngày sinh 26 tháng 10, 1966 (58 tuổi)
Nơi sinh Livno, CHXHCN Bosna và Hercegovina, Nam Tư
Chiều cao 1,79 m
Vị trí Tiền vệ phòng ngự
Thông tin đội
Đội hiện nay
Croatia (huấn luyện viên)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
–1983 Troglav 1918
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1983–1986 Hajduk Split 4 (0)
1986–1987 Dinamo Vinkovci 12 (0)
1987–1988 Hajduk Split 5 (0)
1988–1989 Budućnost Titograd 7 (0)
1989–1991 Velež Mostar 37 (3)
1992–1996 Varteks 108 (13)
1996–1998 Hajduk Split 28 (1)
1998–2000 Varteks 11 (1)
Tổng cộng 247 (23)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
2004-2005 Varteks (tạm quyền)
2005–2007 Varteks
2007–2008 Rijeka
2008–2009 Dinamo Tirana
2009–2010 Slaven Belupo
2010–2012 Al Faisaly
2012–2013 Al Hilal
2014–2017 Al Ain
2017– Croatia
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Croatia (với tư cách là huấn luyện viên)
FIFA World Cup
Á quân Nga 2018
Vị trí thứ ba Qatar 2022
UEFA Nations League
Á quân Hà Lan 2023
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Zlatko Dalić (phát âm tiếng Serbia-Croatia: [zlâtko dǎːlitɕ],[1] sinh ngày 26 tháng 10 năm 1966) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Croatia. Ông hiện đang là huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia.

Ông là huấn luyện viên của đội tuyển Croatia kể từ năm 2017 và đã dẫn dắt đội giành vị trí thứ hai và thứ ba tại các kỳ FIFA World Cup năm 20182022, cùng với suất tham dự UEFA Euro 2020UEFA Euro 2024. Do đó, ông được coi là huấn luyện viên vĩ đại nhất trong lịch sử đội tuyển quốc gia Croatia.[2]

Sự nghiệp cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Dalić đã chơi cho một số câu lạc bộ khi còn là cầu thủ. Ông khởi đầu sự nghiệp trẻ của mình trong màu áo Troglav 1918 Livno trước khi khởi đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp khi gia nhập Hajduk Split vào năm 1983. Ông chơi cho Hajduk Split cho đến năm 1986 trước khi gia nhập Cibalia, khi đó được gọi là Dinamo Vinkovci. Trong những năm tiếp theo của sự nghiệp, Dalić chơi cho các câu lạc bộ Budućnost Titograd (ngày nay được gọi là Budućnost Podgorica), Velež MostarVarteks. Ông treo giày ở tuổi 34 vào năm 2000 tại Varteks.[3]

Sự nghiệp huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ của mình vào năm 2000, Dalić trở thành trợ lý huấn luyện viên tại Varteks. Từ tháng 5 năm 2002 đến tháng 5 năm 2005, Dalić làm giám đốc thể thao của câu lạc bộ, và trong các mùa giải 2003–04 và 2004–05, ông là kiêm trợ lý huấn luyện viên cho Miroslav Blažević.

Vào tháng 5 năm 2005, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Varteks. Trong mùa giải đầu tiên nắm quyền của ông, đội đã cán đích ở vị trí thứ ba tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Croatia và lọt vào trận chung kết Cúp bóng đá Croatia. Trong trận lượt đi của trận chung kết diễn ra tại Rijeka, Varteks đã thua 0–4 trước HNK Rijeka. Trong trận lượt về tại Varaždin, Dalić gần như đã tạo nên một cú sốc khi dẫn dắt đội bóng giành chiến thắng 5–1, nhưng họ đã thất bại chung cuộc trước HNK Rijeka vì chưa ghi thêm một bàn thắng nữa để giành vô địch cúp quốc gia.[4]

Vào mùa hè năm 2007, ông trở thành huấn luyện viên của Rijeka sau khi hợp đồng của ông với Varteks kết thúc. Ông kết thúc mùa giải 2007–08 ở vị trí thứ tư. Sau khi bị loại khỏi Cúp UEFA Intertoto 2008 bởi KF Renova, Dalić bị sa thải vào ngày 1 tháng 7 năm 2008 ngay trước khi mùa giải bắt đầu.[5]

Dinamo Tirana

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa giải 2008–09, Dalić đã đến Albania để làm huấn luyện viên mới của nhà vô địch Albania Dinamo Tirana. Sau mùa giải 2008–09, ông đã giành Siêu cúp Albania cùng đội.[6] Ông đã từ chức vào tháng 2 năm 2009 sau khi thua hai trận derby liên tiếp trước các đội thủ đô khác là TiranaPartizani.[7]

Slaven Belupo

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau một thời gian ngắn ở Albania, ông trở về Croatia vào năm 2009 và tiếp quản câu lạc bộ bóng đá Croatia thứ ba của mình là Slaven Belupo.[8] Đội cán đích thứ 7 chung cuộc tại giải vô địch quốc gia với 11 chiến thắng, 10 trận hòa và 9 trận thua cũng như đạt được đến vòng tứ kết trong mùa giải 2009–10.[9]

Al Faisaly

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào mùa giải 2010–11, Dalić là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Ả Rập Xê Út Al Faisaly. Vào cuối mùa giải 2010–11, câu lạc bộ đã đạt được thành công lớn nhất trong lịch sử của mình khi giành quyền tham dự Cúp Nhà vua thuộc Saudi Pro League.[10] Dalić được tờ báo Al Riyadh vinh danh là Huấn luyện viên Saudi Pro League xuất sắc nhất năm cho mùa giải 2010–11.[11] Trong một cuộc bình chọn, ông đã đánh bại các huấn luyện viên nổi tiếng khác đang làm việc tại Ả Rập Xê Út vào thời điểm đó như Gabriel Calderón, Walter ZengaEric Gerets.[11]

Vào ngày 3 tháng 5 năm 2012, Dalić ký hợp đồng với câu lạc bộ Ả Rập Xê Út Al-Hilal để nắm quyền huấn luyện đội B của câu lạc bộ. Vào ngày 30 tháng 1, Al-Hilal đã đồng ý với Dalić huấn luyện đội một sau khi Antoine Kombouaré bị sa thải.[12] Vào ngày 9 tháng 2 năm 2013, Dalić có trận ra mắt cho Al-Hilal với tư cách là huấn luyện viên trong trận đấu gặp câu lạc bộ cũ là Al-Faisaly ở bán kết Cúp bóng đá Thái tử Ả Rập Xê Út 2012–13. Dalić cuối cùng đã dẫn dắt Al-Hilal giành chức vô địch cúp, danh hiệu vô địch thứ sáu liên tiếp của đội và cũng là danh hiệu lớn thứ hai trong sự nghiệp huấn luyện viên của ông. Trong mùa giải 2013–14, ông là ứng cử viên chính cho vị trí giám đốc thể thao tại câu lạc bộ lớn của Croatia là Hajduk Split, nhưng đã từ chối lời đề nghị này.[13]

Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 7 tháng 10 năm 2017, Liên đoàn bóng đá Croatia (HNS) bổ nhiệm Dalić làm huấn luyện viên trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia sau khi sa thải Ante Čačić do một loạt kết quả kém.[14] Sau khi được bổ nhiệm, Dalić tuyên bố rằng ông sẽ chỉ tiếp tục làm huấn luyện viên trưởng nếu Croatia giành quyền tham dự FIFA World Cup 2018 và HNS sẽ quyết định tương lai của ông nếu Croatia không giành quyền tham dự vòng chung kết.[15]

Nhận định và phong cách huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Dalić được coi là huấn luyện viên vĩ đại nhất lịch sử đội tuyển quốc gia Croatia do những thành tích đạt được của ông tại nhiều kỳ World Cup, bao gồm một lần về nhì và một lần về thứ ba.[2] Ông mô tả mối quan hệ với lòng tin vững chắc với các cầu thủ là chìa khóa cho triết lý huấn luyện của mình thông qua câu nói này: "Nếu tôi có khả năng tôn trọng các cầu thủ của mình đến mức tối đa, họ sẽ làm theo, họ sẽ tôn trọng tôi. Chúng tôi có mối quan hệ thẳng thắn và chân thành. Không có bí mật, không có những tình huống khó xử nào hết. Tôi nghĩ rằng mối quan hệ như vậy rất quan trọng đối với một đội tuyển quốc gia vì chúng tôi chỉ ở bên nhau trong một thời gian ngắn. Không có thời gian cho các cuộc thảo luận hay cãi vã nào cả."[16]

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Dalić sinh ngày 26 tháng 10 năm 1966 tại Livno, một thành phố trước đây thuộc về lãnh thổ CHXHCN Bosnia và Herzegovina (quốc gia tiền thân của Bosna và Hercegovina), một quốc gia thuộc CHLBXHCN Nam Tư cũ. Ông xuất thân từ một gia đình người Croatia, có mẹ là Kata và cha là Ivan Dalić.[17] Ông mang quốc tịch Croatia.

Năm 1992, Dalić kết hôn với vợ mình là Davorka Propadalo, người mà anh gặp tại một trường trung học ở Livno.[18] Họ có hai người con trai với nhau là Toni và Bruno.[19][20] Dalić là một tín hữu Công giáo La Mã ngoan đạo và thường xuyên đọc Kinh Mân Côi trong mỗi trận đấu.[21]

Năm 2023, Dalić mở một nhà hàng dành cho đội bóng đá tại thành phố Varaždin của Croatia, nơi ông bắt đầu sự nghiệp huấn luyện viên của mình.[22]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Với tư cách là cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Hajduk Split

Với tư cách là huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Varteks

Dinamo Tirana

Al-Hilal

Al-Ain

Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Dalić, Zlatko (2018). Rusija naših snova [Nước Nga trong mơ của chúng ta] (bằng tiếng Croatia) (ấn bản thứ 1). Zagreb. ISBN 978-953-96701-6-8.

Huân chương

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “How to pronounce Zlatko Dalić”. Forvo (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  2. ^ a b “Sportske novosti - Dalić je na klupi Vatrenih 2000 dana, jedna stvar koju je napravio na početku zagarantirala mu je uspjeh” [Tin thể thao - Dalić ngồi dự bị trong 2000 ngày rực lửa, một điều ông làm ngay từ đầu để đảm bảo thành công của mình]. Sportske Jutarnji (bằng tiếng Croatia). 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  3. ^ “Zlatko Dalic - Spielerprofil”. Transfermarkt (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  4. ^ NK Varteks 5 - 1 HNK Rijeka [Finale Kupa - 3.05.2006.] (Video) (bằng tiếng Croatia). zerovz. 28 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  5. ^ “Zlatko Dalić smijenjen!” [Zlatko Dalić bị sa thải!] (bằng tiếng Croatia). Sportnet.rtl.hr. 1 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  6. ^ “Dinamo fiton Superkupen e Shqiperise” [Dinamo giành Siêu cúp Albania] (bằng tiếng Albania). Arkiva Shqiptare e Lajmeve. 18 tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  7. ^ “Dinamo, Dalic falenderon lojtaret” [Dalić cảm ơn các cầu thủ Dinamo]. Top-Channel.tv (bằng tiếng Albania). 5 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  8. ^ “Dalić preuzeo Slaven Belupo” [Dalić tiếp quản Slaven Belupo]. T-Portal (bằng tiếng Croatia). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  9. ^ “Slaven Belupo Koprivnica - Schedule 09/10”. Transfermarkt (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  10. ^ “Zlatko Dalić u pustinji, nogomet na "pijesku" [Zlatko Dalić trên sa mạc, bóng đá trên "cát"]. Dalje (bằng tiếng Croatia). 4 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.
  11. ^ a b “الهلال يكتسح وزلاتكو الفيصلي يتفوق على العالميين” [Zlatko quét sạch Al Hilal, Al-Faisaly vượt trội thế giới]. Al Riyadh (bằng tiếng Ả Rập). 20 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.
  12. ^ “Kombouaré limogé par Al-Hilal après seulement sept mois” [Kombouaré bị Al-Hilal sa thải chỉ sau bảy tháng]. RTL (bằng tiếng Pháp). 31 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.
  13. ^ Radić, Jurica (20 tháng 12 năm 2013). “Nasljednik Anderssona: Zlatko Dalić novi kandidat za sportskog direktora' [Người kế nhiệm Andersson: Zlatko Dalić là ứng cử viên mới cho vị trí giám đốc thể thao]. Sportske Novosti (bằng tiếng Croatia). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.
  14. ^ “Zlatko Dalić takes over Croatia national team” [Zlatko Dalić dẫn dắt đội tuyển quốc gia Croatia]. Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia (bằng tiếng Anh). 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.
  15. ^ Cvijanović, Marko (17 tháng 10 năm 2017). “Dalić: 'Ne treba mi ugovor, ostajem samo ako odemo u Rusiju' [Dalić: 'Tôi không cần hợp đồng, tôi sẽ chỉ ở lại nếu sang Nga']. Novilist (bằng tiếng Croatia). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.
  16. ^ Fitzpatrick, Joel (14 tháng 6 năm 2018). “World Cup: Coach Dalic the key to Croatia's run to the final, says Modric” [World Cup: Huấn luyện viên Dalic là chìa khóa giúp Croatia lọt vào trận chung kết, Modric nói]. Kyodo News+ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  17. ^ Vulas, Frane (13 tháng 10 năm 2017). “Nije bilo lako Dalićima gledati utakmicu: 'Vjerujem da bi trebao biti izabran za izbornika, ali znam da Mamić ima svoje...' [Thật không dễ dàng để Dalić theo dõi trận đấu: 'Tôi tin rằng ông ấy nên được bầu làm huấn luyện viên, nhưng tôi biết Mamić có cái riêng của mình...']. Slobodna Dalmacija (bằng tiếng Croatia). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  18. ^ Belošević, Nikolina (8 tháng 3 năm 2017). “Ona je najveća potpora i vjetar u leđa našem izborniku Zlatku Daliću” [Cô ấy là chỗ dựa lớn nhất và là nguồn gió đằng sau huấn luyện viên Zlatko Dalić của chúng tôi]. T-Portal (bằng tiếng Croatia). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  19. ^ “Detalji iz privatnog života Zlatka Dalića: Otkrivamo što je radio u ratu, što je po struci i gdje je upoznao suprugu” [Chi tiết về cuộc sống cá nhân của Zlatko Dalić: Chúng ta tìm hiểu xem ông đã làm gì trong chiến tranh, nghề nghiệp của ông là gì và ông gặp vợ mình ở đâu]. Showbuzz (bằng tiếng Croatia). 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  20. ^ Vlaović, Milana (13 tháng 3 năm 2018). “Zlatko Dalić: Supruga je žrtva moje karijere” [Zlatko Dalić: Vợ tôi là nạn nhân trong sự nghiệp của tôi]. Gloria (bằng tiếng Croatia). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  21. ^ Hinrichs, Miriam (18 tháng 7 năm 2018). “«Alles im Leben verdanke ich Gott»”. jesus.ch (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  22. ^ “Video: Zlatko Dalić opens unique restaurant in Varaždin, Modrić and Kovačić attend opening” [Video: Zlatko Dalić mở nhà hàng độc đáo ở Varaždin, Modrić và Kovačić tham dự lễ khai trương]. Croatia Week (bằng tiếng Anh). 4 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2024.
  23. ^ “HNK - 2005/2006”. Prva HNL. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  24. ^ “Zlatko Dalić počasni građanin Varaždinske županije, vijećnici i župan uputili mu podršku uoči polufinala” [Các ủy viên hội đồng và quận trưởng đã gửi lời ủng hộ cho Zlatko Dalić, công dân danh dự của Quận Varaždin, trước trận bán kết]. Varaždinska županija (bằng tiếng Croatia). 11 tháng 7 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  25. ^ zdravko (6 tháng 7 năm 2023). “Održana svečana sjednica općinskoga vijeća Tomislavgrad” [Phiên họp trang trọng của Hội đồng thành phố Tomislavgrad được tổ chức]. Općina Tomislavgrad (bằng tiếng Croatia). Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  26. ^ “Održana svečana sjednica povodom Dana Općine” [Phiên họp trang trọng được tổ chức nhân Ngày thành lập Thành phố]. Varaždinske Vijesti (bằng tiếng Croatia). 9 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]