Bước tới nội dung

Tadeusz Bór-Komorowski

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tướng
Tadeusz Komorowski
Chức vụ
Nhiệm kỳ2 tháng 7 năm 1947 – 10 tháng 2 năm 1949
Tiền nhiệmTomasz Arciszewski
Kế nhiệmTadeusz Tomaszewicz
Thông tin cá nhân
Sinh(1895-06-01)1 tháng 6 năm 1895
Khorobriv, Vương quốc Galicia và Lodomeria, Áo-Hung
Mất24 tháng 8 năm 1966(1966-08-24) (71 tuổi)
London, Anh, Vương quốc Anh
Tặng thưởngOrder of the White Eagle (posthumously) Virtuti Militari Virtuti Militari Virtuti Militari Krzyz Zaslugi Krzyz Zaslugi Polonia Restituta Cross of the Valorous Cross of the Valorous Cross of the Valorous
Binh nghiệp
Thuộc Ba Lan
Năm tại ngũ1913–1947
Cấp bậc Thiếu tướng
Tham chiếnThế chiến I
Chiến tranh Ba Lan-Ukraina
Chiến tranh Nga-Ba Lan
Thế chiến II

Tướng Tadeusz Komorowski (1 tháng 6 năm 1895 - 24 tháng 8 năm 1966), được biết đến nhiều hơn với tên Bór-Komorowski (theo một trong những mật danh thời chiến của ông: Bór - "Khu rừng") là một nhà lãnh đạo quân sự người Ba Lan.[1] Ông được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh một ngày trước khi cuộc Khởi nghĩa Warszawa thất bại, và sau Chiến tranh thế giới thứ hai ông là Thủ tướng thứ 32 của chính phủ Ba Lan lưu vong thứ ba ở London.[2]

Komorowski sinh ra ở Khorobriv, thuộc Vương quốc Galicia và Lodomeria (phân vùng Ba Lan của Áo). Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông phục vụ với tư cách là một sĩ quan trong Quân đội Áo-Hung, và sau chiến tranh ông trở thành một sĩ quan trong Quân đội Ba Lan với vai trò chỉ huy Trường Kỵ binh Grudziądz. Ông là thành viên của đội đua ngựa Ba Lan tham dự Thế vận hội Mùa hè 1924.[3]

Sau khi tham gia vào cuộc chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của Đức vào Ba Lan vào đầu Thế chiến thứ hai năm 1939, Komorowski, với mật danh Bór, đã giúp tổ chức lực lượng ngầm của Ba Lan ở khu vực Kraków. Vào tháng 7 năm 1941, ông trở thành phó chỉ huy của Quân đội Nhà (Armia Krajowa), và vào tháng 3 năm 1943 được bổ nhiệm làm chỉ huy của lực lượng này, với cấp bậc Chuẩn tướng.[1] Ông có cảm tình với Đảng Quốc gia cực hữu bài Do Thái. Là chỉ huy của Quân đội Nhà, Komorowski đã đảo ngược các chính sách thân Do Thái của người tiền nhiệm, Stefan Rowecki. Komorowski phản đối việc viện trợ cho những người Do Thái tìm cách tổ chức các cuộc nổi dậy ở khu ổ chuột và ủng hộ việc loại trừ người Do Thái khỏi tổ chức. Nhà sử học người Mỹ Joshua D. Zimmerman cáo buộc Komorowski đã mô tả các đảng phái Do Thái là "những phần tử cộng sản, thân Liên Xô" với "sự thờ ơ lạnh nhạt" đối với cuộc diệt chủng Holocaust đang diễn ra.[4]

Vào giữa năm 1944, khi các lực lượng Liên Xô tiến vào miền trung Ba Lan, chính phủ Ba Lan lưu vong ở London đã chỉ thị cho Bór-Komorowski chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy vũ trang ở Warszawa. Chính phủ lưu vong mong muốn trở lại thủ đô do người Ba Lan giải phóng, không bị Liên Xô chiếm giữ, và ngăn chặn việc Cộng sản chiếm Ba LanStalin đã lên kế hoạch.[5] Cuộc Khởi nghĩa Warszawa bắt đầu theo lệnh của Komorowski vào ngày 1 tháng 8 năm 1944 và những người nổi dậy sử dụng súng AK đã giành quyền kiểm soát phần lớn miền trung Warszawa.

Ngày 29 tháng 9 năm 1944, Bór-Komorowski được thăng chức Tổng thanh tra các Lực lượng Vũ trang (Tổng tư lệnh Ba Lan).[1] Vào ngày 4 tháng 10,[6] sau hai tháng giao tranh ác liệt, Bór-Komorowski đầu hàng SS-Obergruppenführer Erich von dem Bach-Zelewski[6] sau khi Đức Quốc Xã đồng ý coi các máy bay chiến đấu của Quân đội Nhà là tù binh. Tướng Bór-Komorowski bị bắt giam tại Đức (tại Oflag IV-C). Bất chấp những yêu cầu lặp đi lặp lại, ông từ chối ra lệnh cho các đơn vị Quân đội Nhà còn lại ở Ba Lan bị chiếm đóng đầu hàng.[5]

Sau chiến tranh, Bór-Komorowski chuyển đến London, nơi ông đóng một vai trò tích cực trong giới lưu vong Ba Lan. Từ năm 1947 đến năm 1949, ông giữ chức Thủ tướng của một Chính phủ Ba Lan lưu vong không còn được hầu hết các nước Tây Âu công nhận về mặt ngoại giao. Ông đã viết câu chuyện về những trải nghiệm của mình trong cuốn Đội quân bí mật (1950). Sau chiến tranh, ông là một thợ bọc.

Ông mất ở London ở tuổi 71.[2] Sau khi qua đời tại London vào ngày 24 tháng 8 năm 1966, ông được chôn cất tại Nghĩa trang Gunnersbury (còn được gọi là Nghĩa trang Kensington (Mới)).

Vào ngày 30 tháng 7 năm 1994, tro cốt của Tướng Tadeusz Bór-Komorowski được chôn cất tại Nghĩa trang Quân đội Powązki ở Warszawa.[7]

Vinh danh và giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Huân chương Đại bàng trắng (di cảo, 1995)
  • Commander's Cross of the Order of Virtuti Militari (trước đó được trao tặng Knight's Cross, Gold CrossSilver Cross)
  • Grand Cross of the Order of Polonia Restituta (trước đó được trao tặng Officer's Cross)
  • Cross of Valour – ba lần
  • Gold Cross of Merit with Swords
  • Gold Cross of Merit
  • Silver Cross of Merit
  • Honorary citizen of Glowno (di cảo, 2004)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Mariusz Podgórski, Mikołaj Falkowski (ngày 26 tháng 2 năm 2009). “Tadeusz Bór-Komorowski”. Historia. Polskie Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
  2. ^ a b Andrzej Paczkowski (2003). The Spring Will Be Ours: Poland and the Poles from Occupation to Freedom. Penn State Press. tr. 196. ISBN 0271047534.
  3. ^ “Tadeusz Bór-Komorowski”. Olympedia. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.
  4. ^ Zimmerman, Joshua D. (2019). “The Polish Underground Home Army (AK) and the Jews: What Postwar Jewish Testimonies and Wartime Documents Reveal”. East European Politics and Societies and Cultures. 34: 15–17. doi:10.1177/0888325419844816. S2CID 204482531.
  5. ^ a b Piotr M. Majewski, 63 Dni walki o Warszawę (63 days of fight for Warsaw) Mowiawieki.pl (Internet Archive)
  6. ^ a b Miller 2016, tr. 39.
  7. ^ “POLISH HERO'S ASHES FINALLY BURIED IN HOMELAND”. Deseret News (bằng tiếng Anh). Associated Press. ngày 31 tháng 7 năm 1994. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Miller, Michael (2015). Knight's Cross Holders of the SS and German Police 1940-45. England: Helion & Company. ISBN 978-1-909982-74-1.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chức vụ chính trị
Tiền nhiệm:
Tomasz Arciszewski
Thủ tướng Cộng hòa Ba Lan lưu vong
1947–1949
Kế nhiệm:
Tadeusz Tomaszewski
Chức vụ quân sự
Tiền nhiệm:
Stefan Rowecki
Chỉ huy Quân Đội Nhà
1943–1944
Kế nhiệm:
Leopold Okulicki
Tiền nhiệm:
Kazimierz Sosnkowski
Tổng thanh tra các Lực lượng Vũ trang
1944–1946
Kế nhiệm:
Władysław Anders