Oscar (lớp tàu ngầm)
K-150 Tomsk gần Vilyuchinsk
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Tàu ngầm lớp Oscar |
Xưởng đóng tàu | Sevmash |
Bên khai thác | |
Lớp trước | |
Lớp sau | Lớp Yasen |
Thời gian đóng tàu | 1975–nay |
Thời gian hoạt động | 1980–nay |
Dự tính | 20 (2 949, 18 949A)[1] |
Hoàn thành | 14 (2 949, 11 949A, 1 09852) |
Hủy bỏ | 6 (2 incomplete, 4 never laid down) |
Đang hoạt động | 6 (+2 on modernization to 949AM)[2] |
Bỏ không | 2[3] |
Bị mất | 1 |
Nghỉ hưu | 4 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 155 m (508 ft 6 in)[1] maximum |
Sườn ngang | 18,2 m (59 ft 9 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ] |
Mớn nước | 9 m (29 ft 6 in) |
Công suất lắp đặt | 2 × pressurized water cooled reactors, HEU ≤ 45%[4] |
Động cơ đẩy | 2 × steam turbines delivering 73.070 kW (97.990 shp) to two shafts |
Tốc độ |
|
Tầm hoạt động | 120 days[1] |
Độ sâu thử nghiệm | 600 m |
Thủy thủ đoàn tối đa | 94/107[1] |
Vũ khí |
|
Tàu ngầm lớp Oscar, định danh của Liên Xô Project 949 Granit và Project 949A Antey (tên ký hiệu của NATO Oscar I và Oscar II), là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình của Hải quân Liên Xô. Tàu ngầm đầu tiên được đóng vào những năm 1970s,sáu chiếc vẫn còn đang vận hành trong Hải quân Nga. Hai chiếc khác đang trong quá trình hiện đại hóa lên phiên bản Project 949M từ năm 2017 nhằm kéo dài tuổi thọ hoạt động và khả năng chiến đấu của chúng.
Tàu ngầm Project 949 là loại tàu ngầm mang tên lửa hành trình lớn nhất từng được chế tạo cho đến khi tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Hải quân Mỹ được chuyển đổi sang mang tên lửa hành trình từ năm 2007. Tàu ngầm lớp Oscar là loại tàu lớn thứ tư trên thế giới về chiều dài và lượng giãn nước. Chỉ có tàu ngầm lớp Typhoon, tàu ngầm lớp Borei của Nga và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Mỹ lớn hơn nó.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Chiếc đầu tiên của Project 949 được đặt ki vào giữa những năm 1970s và được đưa vào trang bị vào năm 1980. Năm 1982, Hải quân Liên Xô tiến hành thay thế lớp tàu nguyên bản bằng lớp tàu cải tiến và lớn hơn (Project 949A). Tổng cộng đã có mười bốn tàu ngầm được đóng. Tàu ngầm lớp Oscar được thiết kế để tấn công cụm tác chiến tàu sân bay của Mỹ bằng các tên lửa chống tàu tầm xa P-700 Granit (SS-N-19 "Shipwreck") và tọa độ của mục tiêu được xác định nhờ hệ thống vệ tinh EORSAT (thông qua ăng ten Punch Bowl của tàu ngầm).[5][6][7] Trong tình hình tài chính khó khăn sau khi Liên Xô sụp đổ, tàu ngầm Oscar trở thành ưu tiên của Hải quân Nga, trong khi nhiều lớp tàu ngầm cũ hơn của Hải quân Nga đã phải cho nghỉ hưu thì tàu ngầm lớp Oscar vẫn được duy trì trong Hạm đội Phương Bắc và Hạm đội Thái Bình Dương.
Hiện đại hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Viện thiết kế hàng hải trung ương Rubin đảm nhận công việc hiện đại hóa tàu ngầm Project 949A vào năm 2011, công việc được tiến hành tại xưởng đóng tàu Zvezdochka và Zvezda.[8] Tháng Chín năm 2015, Bộ trưởng quốc phòng Nga Sergey Shoygu trong một chuyến thăm nhà máy đóng tàu Zvezda đã có phát biểu ít nhất ba tàu ngầm lớp Oscar đang được tu sửa và hiện đại hóa giúp chúng kéo dài tuổi thọ phục vụ lên 20 năm.[9] Tàu ngầm được hiện đại hóa theo cấu hình "Project 949AM". Khoản tiền để hiện đại hóa là 182 triệu đô la cho mỗi tàu ngầm.[10]
Tháng Chín năm 2016, có báo cáo cho biết các tàu ngầm K-132 Irkutsk và K-442 Chelyabinsk đã được hiện đại hóa lên tiêu chuẩn 949AM.[11] Theo người phát ngôn chính phủ Nga Yury Borisov, hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Nga có thể sẽ nhận được bốn tàu ngầm Oscar II nâng cấp với trang bị tên lửa hành trình Kalibr vào năm 2021.[12]
Các phiên bản tàu ngầm
[sửa | sửa mã nguồn]Project 949 Granit (Oscar I)
[sửa | sửa mã nguồn]Hải quân Nga đã đóng hai tàu ngầm Project 949 Granit tại Severodvinsk từ năm 1975 đến năm 1982 và được đưa vào phiên chế của Hạm đội phương Bắc. K-525 được khởi đóng vào năm 1975 và chiếc K-206 vào năm 1979. Sau khi đóng hai chiếc đầu, Liên Xô đã tiến hành đóng phiên bản cải tiến Project 949A Antey. Cả hai tàu Project 949 đều đã được loại biên năm 1996[13] và tiến hành tháo dỡ năm 2004.[14]
Project 949A Antei (Oscar II)
[sửa | sửa mã nguồn]Mười một chiếc Project 949A Antey được nhà máy đóng tàu Severodvinsk, năm chiếc trong số đó được chuyển giao cho Hạm đội Phương Bắc. Người ta cũng dự kiến phát triển tàu ngầm thế hệ thứ tư tiếp theo Project 949A, nhưng kế hoạch này đã bị hủy bỏ. Sự khác biệt về bề ngoài giữa hai lớp tàu ngầm là tàu ngầm phiên bản 949A dài hơn khoảng 10 mét (33 ft) so với nguyên mẫu 949 (khoảng 154 mét, 505 ft so với 143 m, 469 ft), bổ sung thêm không gian và lực nổi giúp cải thiện hệ thống điện twr và hệ thống đẩy hoạt động im lặng hơn.
Một số người suy đoán khả năng yên lặng về mặt thủy âm của tàu ngầm lớp Oscar II tốt hơn lớp tàu ngầm Lớp Akula cũ hơn nhưng nó ở trình độ phát triển thấp hơn thiết kế của tàu ngầm Akula II cũng như các tàu ngầm thế hệ bốn sau này.[15] Tàu ngầm Oscar 2 có cánh đuôi lớn hơn, và chân vịt của nó có bảy lá thay vì bốn lá.[16]
Giống như các thiết kế tàu ngầm Liên Xô thời kỳ chiến tranh Lạnh, tàu ngàm Oscar II được chế tạo với hai lớp vỏ.[17] Cũng như các thiết kế của các lớp tàu ngầm khác, Project 949 không chỉ có vọng quan sát ở cột tàu ngầm, mà khi trong thời tiết xấu, tàu có thêm một tháp quan sát được bọc kín ở phía trước tàu, và thấp hơn vọng quan sát một chút. Dấu hiệu phân biệt của lớp tàu ngầm này là nó có một chỗ phình ra nhỏ ở trên đầu của cánh đuôi đứng. Một cửa lớp ở một phía đuôi giúp tiếp cận cái bướu này. Federation of American Scientists[16] báo cáo rằng tàu ngầm này có khả năng mang được khoang thoát hiểm, và có thể những cánh cửa này bảo vệ cho khoang thoát hiểm. Khoang thoát hiểm VSK có khả năng chứa được 110 thủy thủ và sĩ quan.[18]
Project 949AM
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2011, Bộ quốc phòng Nga đưa ra tuyên bố tiến hành hiện đại hóa tàu ngầm Project 949A.[8] Như một phần của tiến trình hiện đại hóa, các tàu ngầm cũ sẽ được thay thế tên lửa chống tàu P-700 Granit với cơ số đạn 24 quả bằng 72 quả tên lửa chống tàu 3M-54 Kalibr hoặc P-800 Oniks. Việc nâng cấp không phải thay đổi vỏ tàu mà tên lửa mới sẽ được lắp đặt vừa với các ống phóng tên lửa cũ. Tàu ngầm cũng sẽ được trang bị hệ thống thông tin chiến đấu Omnibus-M và hệ thống định vị Simfoniya-3.2, cùng với đó là hệ thống kiểm soát bắn, hệ thống liên lạc, sonar, radar và hệ thống tác chiến điện tử mới.[10] Việc hiện đại hoá sẽ giúp tàu ngầm Oscar đạt trình độ công nghệ tương đương với các tàu ngầm thế hệ mới của Nga như tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình lớp Yasen.[9]
Belgorod, Project 09852
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng Mười hai năm 2012, Nga chế tạo một lớp tàu ngầm nghiên cứu và chuyên thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt với mã định danh Project 09852. Con tàu này được chế tạo dựa trên một tàu ngầm chưa hoàn thiện thuộc lớp Oscar II, chiếc Belgorod.[19][20][21] Con tàu được cho là được thiết kế để mang theo cả tàu ngầm con có người lái (tàu ngầm Project 18511) cũng như tàu ngầm không người lái (Klavesin-1R).[20][22] Tuy nhiên, trong khi nó có khả năng mang tàu ngầm con không người lái dựa trên thân vỏ của tàu ngầm Oscar, việc triển khai mang theo tàu ngầm có người lái như Project 18511 Paltus hay tàu ngầm lớn hơn như Project 10831 Losharik,[23] sẽ bắt buộc phải kéo dài thân con tàu để có không gian cho khoang kết nối. Để ví dụ, chiều dài của tàu ngầm BS-64 Podmoskovye đã được tăng thêm 9 mét (30 ft) dù cho các khoang chứa tên lửa đạn đạo SLBM đã bị loại bỏ.[24][25]
Belgorod sẽ có khả năng mang theo ngư lôi hạt nhân Poseidon (tên gọi của NATO: Kanyon), có khả năng mang đầu đạn nhiệt hạch đương lượng nổ lên tới 100 Mt, tổng cộng có bốn ngư lôi được đặt nằm ngang ở vị trí của ống phóng tên lửa P-700 Granit, với tổng đương lượng nổ 600 Megaton TNT.[22][26][27][28]
Người ta ước đoán tàu ngầm Belgorod có chiều dài 184 mét (604 ft), khiến nó sẽ trở thành tàu ngầm dài nhất từng được chế tạo.[22][29]
Ngày 23/4/2019, Belgorod đã nổi trong buổi lễ bàn giao tàu ngầm tại Nhà máy đóng tàu Sevmash, với sự chứng kiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin thông qua TV-link. Các công việc tiếp theo sẽ được hoàn tất và con tàu sẽ bắt đầu thử nghiệm theo lịch trình vào năm 2020 sau đó sẽ được bàn giao cho Hải quân Nga.[30][31] Tuy nhiên việc thử nghiệm trên biển đã bị hoãn cho tới tháng Năm năm 2021.[32] Sau khi bị trì hoãn vài lần, cuộc thử nghiệm trên biển đã diễn ra vào ngày 25/6/2021.[33] Con tàu đã được bàn giao cho Hải quân Nga vào ngày 8/7/2022.[34]
Danh sách các tàu ngầm đã đóng
[sửa | sửa mã nguồn]No | Name | Project | Đặt ky | Hạ thủy | Trang bị | Hạm đội | Status |
---|---|---|---|---|---|---|---|
K-525 | Arkhangelsk(ex-Minskiy Komsomolets) | 949 | 25/7/1975 | 3/5/1980 | 30/12/1980 | Hạm đội phương Bắc | Tháo dỡ năm 2014[35] |
K-206 | Murmansk | 949 | 22/4/1979 | 10/12/1982 | 30/11/1983 | Hạm đội phương Bắc | Tháo dỡ năm 2017[36] |
K-148 | Krasnodar | 949A | 22/7/1982 | 3/3/1985 | 30/9/1986 | Hạm đội phương Bắc | Tháo dỡ năm 2014[37] |
K-173 | Krasnoyarsk | 949A | 4/8/1983 | 27/3/1986 | 31/12/1986 | Hạm đội Thái Bình Dương | Tháo dỡ năm 2016/17[38] |
K-132 | Irkutsk | 949A | 8/5/1985 | 27/12/1987 | 30/12/1988 | Hạm đội Thái Bình Dương | Được đưa vào trùng tu từ năm 2023;[39] dự kiến vòng đời kéo dài thêm mười năm;[40] Được hiện đại hoá lên phiên bản 949AM �tại Nhà máy đóng tàu Zvezda từ năm 2012.[41][42][43] |
K-119 | Voronezh | 949A | 25/2/1986 | 16/12/1988 | 29/12/1989 | Hạm đội phương Bắc | Đưa vào dự trữ từ năm 2020[44] |
K-410 | Smolensk | 949A | 9/12/1986 | 20/1/1990 | 22/12/1990 | Hạm đội phương Bắc | Đại tu từ tháng 12/2013[45][46] |
K-442 | Chelyabinsk | 949A | 21/5/1987 | 18/6/1990 | 28/12/1990 | Hạm đội Thái Bình Dương | Hiện đại hóa lên phiên bản 949AM tại Nhà máy đóng tàu Zvezda từ năm 2016.[42][43] |
K-456 | Tver(trước đây là tàuVilyuchinsk) | 949A | 9/2/1988 | 28/6/1991 | 18/8/1992 | Hạm đội Thái Bình Dương | Hoạt động tính đến năm 2016[cập nhật].[47] |
K-266 | Orel(đổi tên từ Severodvinsk) | 949AM | 19/1/1989 | 22/5/1992 | 30/12/1992 | Hạm đội phương Bắc | Hiện đại hóa từ tháng Tư năm 2017[48][49] |
K-186 | Omsk | 949A | 13/7/1989 | 10/5/1993 | 15/12/ 1993 | Hạm đội Thái Bình Dương | Vẫn hoạt động, hiện đại hóa năm 2008[50][51][52] |
K-150 | Tomsk | 949A | 27/8/1991 | 20/7/1996 | 30/12/1996 | Hạm đội Thái Bình Dương | Vẫn hoạt động, hiện đại hóa năm 2019[53][54][55] |
K-141 | Kursk | 949A | 22/3/1992 | 16/5/1994 | 30/12/1994 | Hạm đội phương Bắc | Chìm ngày 12/8/2000 |
K-329 | Belgorod | 09852 | 20/12/2012 | 23/4/2019[30] | 8/7/2022[34] | Hạm đội phương Bắc | Sử dụng cho các sứ mệnh đặc biệt.[56] Chạy thử nghiệm năm 2021.[32][33][57][58][59] |
K-135 | Volgograd | 949A | 2/9/1993 | Chưa được hoàn thiện, được sử dụng để chế tạo tàu ngầm mới[60] | |||
K-160 | Barnaul | 949A | 4/1994 | Chưa được hoàn thiện, được sử dụng để chế tạo tàu ngầm mới[3] |
Thư viện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]-
Tàu ngầm Oscar trên biển.
-
K-186 Omsk trong ngày Hải quân tại Vladivostok, 2008
-
K-266 Orel sau khi được đại tu
-
Tháo dỡ tàu ngầm Oscar tại xưởng đóng tàu Zvezdochka, Severodvinsk
-
Hình dung của Họa sĩ về căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô những năm 1980s
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f Podvodnye Lodki, Yu.V. Apalkov, Sankt Peterburg, 2002, ISBN 5-8172-0069-4
- ^ “ЦАМТО / Новости / До 2025 года Минобороны РФ намерено модернизировать 4 атомные подлодки для ТОФ”. Armstrade.org. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ Peter Lobner (tháng 7 năm 2018). “Marine Nuclear Power : 1939 – 2018” (PDF). Lynceans.org. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ Siddiqi, Asif (tháng 11 năm 1999). “Staring at the Sea: The Soviet RORSAT and EORSAT Programmes” (PDF). Journal of the British Interplanetary Society. 52 (11): 397–416. Bibcode:1999JBIS...52..397S. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2013.
- ^ “data” (JPG). i.imgur.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2016.
- ^ “SSGN Oscar II Class (Project 949.A) (Kursk) – Naval Technology”. naval-technology.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2013.
- ^ a b “Атомные подлодки проекта "Антей" пройдут перевооружение”. lenta.ru. 12 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 11 Tháng Ba năm 2016. Truy cập 4 Tháng Ba năm 2019.
- ^ a b “Russia details ambitious effort to modernise nuclear-powered submarines to bolster order of battle”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2019.
- ^ a b “Russia initiates multiyear plan to modernise Oscar II SSGNs”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2019.
- ^ “Russia to upgrade only part of nuclear-powered Antey submarines”. TASS. 29 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 30 Tháng mười hai năm 2018. Truy cập 4 Tháng Ba năm 2019.
- ^ “Russia's Pacific Fleet to get four upgraded nuclear subs by 2021”. TASS. 6 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng Ba năm 2019. Truy cập 4 Tháng Ba năm 2019.
- ^ “Oscar 1 class”. Military Today. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Zvezdochka dismantling two nuclear subs”. Bellona Foundation. 2 tháng 4 năm 2004. Bản gốc lưu trữ 22 Tháng Ba năm 2012. Truy cập 30 Tháng mười hai năm 2011.
- ^ “China's Noisy Nuclear Submarines » FAS Strategic Security Blog”. Fas.org. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
- ^ a b “Project 949 Granit / Oscar I; Project 949A Antey / Oscar II”. Federation of American Scientists. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.
- ^ “949 /A Oscar I/II class”. warfare.be. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2012.
- ^ “A Mystery In The Deep”. The Daily Beast. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2017.
- ^ “Project 09852”. Deagel.com. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2016.
- ^ a b “Russia builds deep-sea research submarine”. World-nuclear-news.org. 21 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Russia builds nuclear submarine for deep-water research”. Barents Observer. Lưu trữ bản gốc 3 Tháng tư năm 2013. Truy cập 29 Tháng tư năm 2013.
- ^ a b c “Spy Subs -Project 09852 Belgorod”. Hisutton.com. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng tư năm 2019. Truy cập 23 Tháng tư năm 2019.
- ^ John Pike. “Project 210 Losharik”. Globalsecurity.org. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Russia's new submarine mothership sets sail | IHS Jane's 360”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2016.
- ^ “Barentsobserver”. Barentsobserver. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2016.
- ^ “Analysis - Russian Status-6 aka KANYON nuclear deterrence and Pr 09851 submarine”. hisutton.com. Lưu trữ bản gốc 17 Tháng hai năm 2019. Truy cập 23 Tháng tư năm 2019.
- ^ “Russia's nuclear underwater drone is real and in the Nuclear Posture Review”. defensenews.com. 12 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2019.
- ^ “The Truth Behind Russia's 'Apocalypse Torpedo'”. popularmechanics.com. 18 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 30 Tháng Ba năm 2019. Truy cập 23 Tháng tư năm 2019.
- ^ “Now, Russia builds a submarine even bigger than the Typhoon”. thebarentsobserver.com. 3 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 29 tháng Chín năm 2018. Truy cập 23 Tháng tư năm 2019.
- ^ a b “Russia floats out first nuclear sub that will carry Poseidon strategic underwater drones”. TASS. 23 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng tư năm 2019. Truy cập 23 Tháng tư năm 2019.
- ^ Rogers, James (24 tháng 4 năm 2019). “Russia launches huge 'doomsday' supersub”. Fox News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
- ^ a b “Belgorod nuclear submarine carrier with Poseidon nuke drones to serve in Pacific”. Tass.com. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2021.
- ^ a b “Belgorod nuclear sub begins its first sea trials”. Tass.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
- ^ a b “Shipbuilders deliver special-purpose sub with nuclear-powered drones to Russian Navy”. tass.com. 8 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2022.
- ^ “Подводный крейсер К-148, "Краснодар". Проект 949А”. Deepstorm.ru (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Атомный подводный крейсер К-173 "Красноярск". Проект 949А”. Deepstorm.ru (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Подводный крейсер К-148, "Краснодар". Проект 949А”. www.deepstorm.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
- ^ “Атомный подводный крейсер К-173 "Красноярск". Проект 949А”. www.deepstorm.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
- ^ “Project 949A Irkutsk, in Refit Since 2001, May Return to Service in 2023”. Seawaves.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2020. [liên kết hỏng]
- ^ “Russian Antey-class nuclear-powered sub's upgrade to extend its service life by 10 years”. Tass.com. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Подводный крейсер К-132, "Иркутск". Проект 949А”. Deepstorm.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
- ^ a b “Russia to upgrade only part of nuclear-powered Antey submarines”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Подводный крейсер К-119, "Воронеж". Проект 949А”. www.deepstorm.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
- ^ “Repair Works Started on SSN Smolensk”. rusnavy.com. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2012.
- ^ Ольга ЕФРЕМОВА - Сайт «Комсомольской правды» (31 tháng 12 năm 2013). “Атомоход "Смоленск" в 2014 году посетит Северный полюс”. Lưu trữ bản gốc 29 tháng Bảy năm 2017. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2017.
- ^ “Warships of the main classes of the Russian Navy as of 01.10.2022”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2022.
- ^ “Подводный крейсер "Орел" отправился к месту базирования”. 6 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2017. Truy cập 6 Tháng tư năm 2017.
- ^ “Nuclear-powered Oscar-class submarine returns to Russian fleet”. 11 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Defense shipyard Zvezda claims RUR 65 mln for repairs of SSGN Omsk”. rusnavy.com. 7 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng hai năm 2012. Truy cập 1 Tháng Một năm 2012.
- ^ “Court obliged Pacific Fleet to pay for repair of SSN Omsk”. rusnavy.com. 8 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng hai năm 2012. Truy cập 1 Tháng Một năm 2012.
- ^ “Подводный крейсер К-186, "Омск". Проект 949А”. Deepstorm.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ “PRESS-CENTER”. dcss.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Nuclear submarine Tomsk returns to Kamchatka naval base having completed naval combat training tasks : Ministry of Defence of the Russian Federation”. eng.mil.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Nuclear submarine "Omsk" returned to Kamchatka after modernization”. Armstrade.org. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Russian Navy to receive Project 09852 submarine Belgorod in summer”. Navy Recognition. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
- ^ “Gigantic special mission submarine starts sea trials in White Sea”. The Independent Barents Observer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2021.
- ^ Sutton, H. I. “Losharik Spy Submarine Accident Is Still A Problem For Russian Navy”. Forbes.com. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ “New Details of Russian Belgorod 'Doomsday' Submarine Revealed”. News.usni.org. 25 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
- ^ a b Лодки с крылатыми ракетами Lưu trữ 2016-08-13 tại Wayback Machine defendingrussia.ru
Bibliography
[sửa | sửa mã nguồn]- The Encyclopedia Of Warships, From World War Two To The Present Day, General Editor Robert Jackson.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Hampshire, Edward (2018). Soviet Cruise Missile Submarines of the Cold War. London: Osprey Publishing. ISBN 978-1-47282-499-8.
- Pavlov, A. S. (1997). Warships of the USSR and Russia 1945–1995. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-671-X.
- Polmar, Norman & Moore, Kenneth J. (2004). Cold War Submarines: The Design and Construction of U.S. and Soviet Submarines. Washington, D. C.: Potomac Books. ISBN 978-1-57488-594-1.
- Polmar, Norman & Noot, Jurrien (1991). Submarines of the Russian and Soviet Navies, 1718–1990. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-570-1.
- Vilches Alarcón, Alejandro A. (2022). From Juliettes to Yasens: Development and Operational History of Soviet Cruise-Missile Submarines. Europe @ War (22). Warwick, UK: Helion & Co. ISBN 978-1-915070-68-5.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Tư liệu liên quan tới Oscar class submarines tại Wikimedia Commons
- “The Kursk Crisis”. deepspace4.com. 23 tháng 8 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2011.
- “Oscar-class subs and Soviet RORSATs”. Friends and Partners. 1 tháng 9 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2007.
- Line drawing of Oscar-class submarine Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine
Bản mẫu:Oscar-class submarine Bản mẫu:Soviet and Russian submarines after 1945