Bước tới nội dung

Mua sắm trả thù

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mua sắm trả thù[1] (hay chi tiêu trả thù[2], mua sắm phục thù[3]; tiếng Anh: revenge buying[4], revenge shopping[5]) là một thuật ngữ đề cập đến sự gia tăng đột ngột việc mua sắm tiêu dùng sau khi mọi người bị từ chối cơ hội mua sắm trong một khoảng thời gian dài.[6] Việc mua sắm trả thù được cho là đã hình thành như một phản ứng của sự thất vọngkhó chịu về tâm lý do những hạn chế trong tự do đi lạithương mại. Không giống như việc mua sắm hoảng loạn, mua sắm trả thù còn dường như liên quan đến việc mua sắm hàng hóa không cần thiết, chẳng hạn như túi xách và quần áo, cũng như đá quýtrang sức.[6][7][8] Các ngành công nghiệp xoay quanh việc sản xuất những mặt hàng này, một trong những nguồn doanh thu chính của lĩnh vực bán lẻ, được xem là đã chịu tổn thất nặng trong thời gian đại dịch COVID-19.[9]

Ban đầu mua sắm trả thù bắt nguồn ở Trung Quốc và đã dần xuất hiện ở các nền kinh tế sau thời gian mở cửa nền kinh tế. Người tiêu dùng tại các quốc gia như Hoa Kỳchâu Âu cũng đã có xu hướng tương tự và các thương hiệu xa xỉ đã có mức tăng trưởng đáng kể so với thời kỳ phong tỏa do COVID-19.[5][10]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Trung Quốc, cuộc Cách mạng Văn hóa trong những năm 1960 và cuộc khủng hoảng COVID-19 gần 60 năm sau đó là những bối cảnh đã dẫn đến hành vi mua sắm trả thù.[6] Hiện tượng này lần đầu tiên được quan sát thấy vào những năm 1980 và được gọi là báo phục tính tiêu phí (tiếng Trung: 报复性消费; bính âm: baofuxing xiaofei) sau khi Trung Quốc mở cửa thương mại quốc tế vào năm 1976, xóa bỏ nền kinh tế tập trung bao cấp. Nó ám chỉ nhu cầu mua sắm đột ngột đối với hàng hóa có thương hiệu nước ngoài.[1][8][11] Hành vi này đã lặp lại ở Trung Quốc vào tháng 4 năm 2020, khi lệnh phong tỏa gần như được dỡ bỏ và thị trường mở cửa trở lại. Vào thời điểm đó, thương hiệu cao cấp Hermès của Pháp đã đạt doanh thu 2,7 triệu đô la Mỹ chỉ trong một ngày.[7][12]

Đại dịch COVID-19

[sửa | sửa mã nguồn]

Tác động kinh tế của đại dịch COVID-19 đã tàn phá nhiều doanh nghiệp bán lẻ toàn cầu. Nhiều cửa hàng và trung tâm mua sắm buộc phải đóng cửa trong nhiều tháng vì hạn chế ở nhà khiến người tiêu dùng không thể tự do đi lại.[13] Theo một bài báo vào tháng 3 năm 2020 trên Business Insider, doanh số bán lẻ đã giảm 20,5% sau khi đại dịch tấn công Trung Quốc — một tỷ lệ chưa từng thấy kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2007–2008.[14]

Ngành may mặc bị ảnh hưởng nặng nề trong đại dịch; một số nhà bán lẻ lớn như J. Crew, Neiman Marcus, J.C. Penney, Brooks Brothers, Ascena Retail Group, Debenhams, Arcadia Group, GNC và Lord & Taylor đều đã nộp đơn phá sản.[15][16]

Theo Văn phòng Thống kê Quốc gia tại Vương quốc Anh và Bắc Ireland, quy mô tổng mức bán lẻ đã phục hồi về mức trước đại dịch COVID-19.[17]

Trung Quốc là quốc gia đầu tiên bị đại dịch COVID-19 tấn công; vào mùa hè năm 2020, chính phủ nước này đã ngăn chặn thành công sự lây lan của dịch bệnh và dỡ bỏ đáng kể các hạn chế.[18][19] Thuật ngữ mua sắm trả thù bắt đầu được phổ biến với sự phục hồi kinh tế ngay lập tức của công ty thời trang Pháp Hermès khi công ty đã ghi nhận doanh thu 2,7 triệu USD tại cửa hàng lớn nhất của mình là Quảng Châu, Trung Quốc vào ngày mở cửa trở lại hồi tháng 4 năm 2020, lập kỷ lục mua sắm nhiều nhất trong một ngày tại một cửa hàng xa xỉ ở Trung Quốc.[10] Ngoài Hermès, hàng dài người cũng xếp hàng bên ngoài các cửa hàng Apple, GucciLancôme.[7][12] Hành vi tương tự cũng đã xuất hiện ở Ấn Độ sau khi nới lỏng các hạn chế liên quan đến biến thể Omicron vào tháng 3 năm 2022.[20] Các hãng truyền thông ở Hoa Kỳchâu Âu cũng đã ghi nhận những hành vi tương tự của người tiêu dùng sau khi nền kinh tế gần như mở cửa trở lại vào tháng 4 năm 2021.[5]

Tương tự, cuối năm 2020, nhiều người dân Singapore cũng đổ tiền vào các bữa tối tại nhà hàng, chấp nhận xếp hàng chờ lâu hoặc ngồi theo nhóm nhỏ và giữ khoảng cách. Người dân đã sử dụng khoản tiền đáng lẽ dành cho du lịch, vui chơi vào những bữa ăn thịnh soạn tại nhà hàng.[2]

Đánh giá

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhận định của các nhà xã hội học, những hành vi mua hàng bốc đồng và cưỡng ép, chẳng hạn như mua sắm hoảng loạn hay mua sắm trả thù đều là những cơ chế đối phó giúp giảm bớt cảm giác tiêu cực.[8][21][22][23]

Mặc dù hành vi mua sắm trả thù lần đầu tiên được quan sát ở Trung Quốc, nhưng kể từ sau đó nó cũng đã được nhìn nhận ở nhiều quốc gia khác nhau. Khi các cửa hàng được mở cửa trở lại sau đợt phong tỏa đầu tiên bởi COVID-19, doanh số bán hàng đã tăng lên, đặc biệt là các cửa hàng xa xỉ. Theo các nhà nghiên cứu của Tạp chí Quốc tế về Tâm thần học Xã hội (tiếng Anh: International Journal of Social Psychiatry), việc mua hàng xa xỉ đóng vai trò như một phương tiện để người tiêu dùng kìm nén những cảm xúc khó chịu.[8] Hành vi này xét về lý thuyết cho rằng khi một mối đe dọa hoặc cản trở quyền tự do hành vi khiến họ khó chịu thì họ sẽ cố gắng giành lại quyền tự chủ đang bị đe dọa.[8][24]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Việt Linh (13 tháng 6 năm 2020). "Mua sắm trả thù": Cú hích kinh tế hay chỉ là trào lưu nhất thời?”. Báo điện tử VTV. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  2. ^ a b Mai An (7 tháng 6 năm 2022). 'Chi tiêu trả thù' ở khắp châu Á”. ZingNews. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ Anh Quang (13 tháng 4 năm 2021). “Người dân Anh đi "mua sắm phục thù' sau phong tỏa”. Báo điện tử VTV. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  4. ^ Pantano, Eleonora; Willems, Kim (24 tháng 1 năm 2022). Retail in a New World: Recovering from the Pandemic That Changed the World (bằng tiếng Anh). Emerald Group Publishing. tr. 19. doi:10.1108/9781801178464. ISBN 978-1-80117-846-4. S2CID 245864500. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  5. ^ a b c Smith, Elliot (2 tháng 6 năm 2021). “How to trade Europe's incoming 'revenge spend,' according to BlackRock”. CNBC (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  6. ^ a b c “Revenge buying”. Philonomist (bằng tiếng Anh). 20 tháng 5 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022.
  7. ^ a b c “The 'revenge buying' syndrome: Here's why people will throng shops post the lockdown”. The Times of India (bằng tiếng Anh). 6 tháng 5 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022.
  8. ^ a b c d e Lins, Samuel; Aquino, Sibele; Costa, Ana Raquel; Koch, Rita (14 tháng 3 năm 2021). “From panic to revenge: Compensatory buying behaviors during the pandemic”. International Journal of Social Psychiatry (bằng tiếng Anh). 68 (4): 921–922. doi:10.1177/00207640211002557. ISSN 0020-7640. PMID 33719662. S2CID 232230029.
  9. ^ Seetharaman, Priya (29 tháng 6 năm 2020). “Business models shifts: Impact of Covid-19”. International Journal of Information Management. 54: 102173. doi:10.1016/j.ijinfomgt.2020.102173. ISSN 0268-4012. PMC 7323683. PMID 32834338.
  10. ^ a b Singh, Shelley (2 tháng 5 năm 2020). “The curious phenomenon of revenge shopping in China after lockdown”. The Economic Times. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  11. ^ Gupta, Astha Sanjeev; Mukherjee, Jaydeep (1 tháng 1 năm 2022). “Decoding revenge buying in retail: role of psychological reactance and perceived stress”. International Journal of Retail & Distribution Management. 50 (11): 1378–1394. doi:10.1108/IJRDM-01-2022-0022. ISSN 0959-0552. S2CID 249717780. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  12. ^ a b “What is Revenge Buying?”. www.timesnownews.com (bằng tiếng Anh). 30 tháng 5 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022.
  13. ^ Kingson, Jennifer A. (6 tháng 7 năm 2020). “The coronavirus is causing a slow-motion retail apocalypse”. Axios (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022.
  14. ^ Edwards, Jim (16 tháng 3 năm 2020). “Retail sales in China dropped by 20.5% after coronavirus hit, illustrating a scary difference between today's crisis and 2008”. Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022.
  15. ^ “Two more retailers file for bankruptcy: Lord & Taylor and Tailored Brands”. Washington Post (bằng tiếng Anh). 3 tháng 8 năm 2020. ISSN 0190-8286. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  16. ^ Thomas, Lauren (26 tháng 12 năm 2020). “The 10 biggest retail bankruptcies of 2020”. CNBC (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  17. ^ “Retail sales, Great Britain – Office for National Statistics”. www.ons.gov.uk. 24 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2022.
  18. ^ Lancet, The (23 tháng 7 năm 2020). “COVID-19 and China: lessons and the way forward”. Lancet. 396 (10246): 213. doi:10.1016/S0140-6736(20)31637-8. ISSN 0140-6736. PMC 7377676. PMID 32711779.
  19. ^ Yu, Xiang; Li, Na; Dong, Yupeng (18 tháng 5 năm 2021). “Observation on China's Strategies to Prevent the Resurgence of the COVID-19 Epidemic”. Risk Management and Healthcare Policy. 14: 2011–2019. doi:10.2147/RMHP.S305413. ISSN 1179-1594. PMC 8140918. PMID 34040464.
  20. ^ Babar, Kailash (21 tháng 3 năm 2022). 'Revenge shopping' helping malls fill up fast as Covid wanes”. The Economic Times. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2022.
  21. ^ Arafat, S. M. Yasir; Kar, Sujita Kumar; Marthoenis, Marthoenis; Sharma, Pawan; Hoque Apu, Ehsanul; Kabir, Russell (1 tháng 7 năm 2020). “Psychological underpinning of panic buying during pandemic (COVID-19)”. Psychiatry Research (bằng tiếng Anh). 289: 113061. doi:10.1016/j.psychres.2020.113061. ISSN 0165-1781. PMC 7202808. PMID 32413711.
  22. ^ Naeem, Muhammad (1 tháng 1 năm 2020). “Understanding the customer psychology of impulse buying during COVID-19 pandemic: implications for retailers”. International Journal of Retail & Distribution Management. 49 (3): 377–393. doi:10.1108/IJRDM-08-2020-0317. ISSN 0959-0552. S2CID 229403038. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  23. ^ Jaspal, Rusi; Lopes, Barbara; Lopes, Pedro (31 tháng 12 năm 2020). Hubert, Marco (biên tập). “Predicting social distancing and compulsive buying behaviours in response to COVID-19 in a United Kingdom sample”. Cogent Psychology. 7 (1): 1800924. doi:10.1080/23311908.2020.1800924. S2CID 222077410. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
  24. ^ Brehm, Sharon S.; Brehm, Jack W. (1981), “Reactance Theory and Control”, Psychological Reactance, Elsevier, tr. 357–384, doi:10.1016/b978-0-12-129840-1.50020-x, ISBN 978-0-12-129840-1, Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2023, truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022