Fujiwara no Atsutada
Fujiwara no Atsutada 藤原 敦忠 | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 906 |
Mất | 23 tháng 4, 943 |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Nhật Bản |
Nghề nghiệp | nhà thơ |
Gia tộc | Gia tộc Fujiwara |
Gia đình | |
Bố | Fujiwara no Tokihira |
Mẹ | Ariwara no Muneyana's daughter |
Anh chị em | Fujiwara no Yasutada, Fujiwara no Akitada |
Hôn nhân | Fujiwara no Haruura's daughter, Minamoto no Hitoshi's daughter, Fujiwara no Akiko |
Con cái | Fujiwara no Sukenobu, Fujiwara no Atsutada's daughter |
Fujiwara no Atsutada (藤原 敦忠 (Đằng Nguyên Đôn Trung) 906—18 tháng 4, 1943) là một nhà thơ quý tộc của Nhật Bản vào giữa thời kỳ Heian. Ông có chân trong Ba mươi sáu ca tiên và một trong những bài thơ của ông nằm trong tập thơ nổi tiếng Ogura Hyakunin Isshu.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Fujiwara no Atsutada là công tử con thứ ba của Tả Đại Thần Fujiwara no Tokihira và là thành viên của gia tộc Fujiwara. Ông nổi tiếng đẹp trai, phong vận, giỏi về đàn tì bà ngang hàng với Minamoto no Hiromasa, một nhạc sư đương thời. Làm quan đến chức Gon-Chūnagon (Quyền Trung Nạp Ngôn) , tòng tam phẩm. Do đó, ông còn được gọi là Biwa Chūnagon (琵琶中納言).
Thơ Mibu no Tadami
[sửa | sửa mã nguồn]Đây là bài thơ thứ 43 trong tập Ogura Hyakunin Isshu do Fujiwara no Teika biên tập:
Nguyên văn: | Phiên âm: | Dịch thơ:[1] | Diễn ý: |
---|---|---|---|
逢ひ見ての
のちの心に くらぶれば 昔はものを 思はざりけり |
Ai mite no Nochi no kokoro ni Kurabureba Mukashi wa mono wo Omowazari keri |
Sau đêm đầu được gặp,
Tự hỏi lòng sao đây? Mới biết tương tư khổ, Nỗi ấy trước đâu tày.
Tương tư nay khổ muôn vàn, so xưa.
|
Sau khi qua đêm với người yêu,
Thử dò xem lòng mình như thế nào. Mới thấy đối với cảnh khổ tâm bây giờ Nỗi nhớ nhung khi chưa được gặp đã thấm vào đâu. |
Xuất xứ
[sửa | sửa mã nguồn]Shūi Wakashū (Thập Di Tập) , thơ luyến ái phần 2, bài 710.
Hoàn cảnh ra đời
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi có được một dịp gặp gỡ lén lút ōse (逢う瀬) thường là qua đêm với người yêu, tác giả tưởng như thế lòng sẽ thanh thản ra, ai ngờ lại càng thêm nhớ nhung đau khổ, hơn cả khi chưa gặp. Chủ đích của bài thơ là để ca ngợi xúc cảm tuyệt đỉnh mà lần hội ngộ đầu tiên đã đem đến và so sánh hương vị nỗi nhớ nhung ở hai thời điểm trước và sau đó.
Đề tài
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi gặp người yêu được một lần đầu, lại càng thêm nhớ nhung đau khổ.
Đây là bài thơ nói về tình cảm người trong cuộc vào sáng hôm sau cuộc gặp gỡ (kinuginu). Kinuginu vừa có thể viết với chữ Hán 後朝 hậu triêu (sáng hôm sau), vừa viết với chữ Hán y y (衣衣 (áo áo)). Y y ám chỉ cảnh hai người tình nhân đêm trước xếp áo để ngủ chung, sáng ra về phải "chia áo" cho nhau mặc lại trước khi ai về nhà nấy. Thơ gọi là kinuginu no uta (後朝の歌), tóm lại là "thơ chia tay" mà người đàn ông viết tặng người đàn bà trước lúc giã từ.
Vì một sự tình khiến đôi tình nhân không thể gặp lại lần thứ hai nên lòng họ mới não nuột. Mono wo omou viết đầy đủ là Koi no mono wo omou có nghĩa là thương nhớ, tương tư.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Nguyễn Nam Trân. “Thơ Quyền Trung Nạp Ngôn Atsutada”. Chim Việt Cành Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2016.
Đường dẫn ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- McMillan, Peter. Năm 2010 (Bản in đầu, Năm 2008). Một Trăm Nhà Thơ, Mỗi Vị Một Thơ. New York: Nhà xuất bản Đại Học Columbia. (tiếng Anh)
- Suzuki Hideo, Yamaguchi Shin'ichi, Yoda Yasushi. Năm 2009 (Bản in đầu, Năm 1997). Genshoku: Ogura Hyakunin Isshu. Tokyo: Bun'eidō. (tiếng Nhật)
- Một trăm bài thơ Nhật Bản cổ (Hyakunin-isshu), biên dịch bởi William N. Porter, 1909, tại trang sacred-texts.com (tiếng Anh)
- Ogura Hyakunin Isshu, biên dịch bởi chimviet.free.fr Lưu trữ 2016-12-22 tại Wayback Machine