Chelmon marginalis
Chelmon marginalis | |
---|---|
Một cặp C. marginalis | |
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Acanthuriformes |
Họ (familia) | Chaetodontidae |
Chi (genus) | Chelmon |
Loài (species) | C. marginalis |
Danh pháp hai phần | |
Chelmon marginalis Richardson, 1842 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Chelmon marginalis là một loài cá biển thuộc chi Chelmon trong họ Cá bướm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1842.
Từ nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Tính từ định danh marginalis trong tiếng Latinh có nghĩa là "viền ở rìa", hàm ý đề cập đến dải màu xanh lam và cam ở rìa vây lưng và vây hậu môn của loài cá này.[2]
Phạm vi phân bố và môi trường sống
[sửa | sửa mã nguồn]C. marginalis là loài đặc hữu của vùng biển phía bắc nước Úc: từ quần đảo Houtman Abrolhos (Tây Úc) vòng qua phía bắc trải dài đến phía bắc rạn san hô Great Barrier (Queensland).[1]
C. marginalis sinh sống trên các rạn viền bờ (bao gồm cả những khu vực sườn dốc) và bờ biển xung quanh các đảo, thường được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.[1]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. marginalis là 18 cm. Mõm dài và nhọn. C. marginalis có kiểu hình khá giống với Chelmon rostratus, nhưng C. marginalis chỉ có hai dải sọc hẹp màu cam ở đầu (băng qua mắt) và thân trước. Hai dải sọc cam này có viền đen nổi bật. Ở thân sau có một dải rộng hơn màu cam nhạt hơn. Vây lưng và vây hậu môn có màu vàng, một dải màu xanh lam gần rìa. Vây bụng màu vàng cam, có các tia màu trắng. Trên cuống đuôi cũng có một dải màu cam; vây đuôi trong mờ, màu trắng. Cá con của C. marginalis có đến bốn dải màu cam và thêm một đốm đen lớn trên vây lưng.[3]
Số gai ở vây lưng: 9–10; Số tia vây ở vây lưng: 29–33; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 21–22; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[4]
Sinh thái học
[sửa | sửa mã nguồn]Thức ăn của C. marginalis bao gồm cua, giun nhiều tơ và một số loài thủy sinh không xương sống.[5] Chúng sống đơn độc và ghép đôi vào mùa sinh sản.[4]
Thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]C. marginalis hầu như không được xuất khẩu trong ngành buôn bán cá cảnh.[5]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Myers, R.; Pratchett, M. (2010). “Chelmon marginalis”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165616A6069068. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165616A6069068.en. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
- ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Acanthuriformes (part 1): Families Lobotidae, Pomacanthidae, Drepaneidae and Chaetodontidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
- ^ Bray, D. J. (2020). “Margined Coralfish, Chelmon marginalis Richardson 1842”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
- ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chelmon marginalis trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
- ^ a b R. Pyle (2001). “Chaetodontidae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3257. ISBN 978-9251045879.