Black Mamba (bài hát)
"Black Mamba" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Aespa | ||||
Ngôn ngữ |
| |||
Phát hành | 17 tháng 11 năm 2020 | |||
Thu âm | 2020 | |||
Phòng thu | SM Booming System | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 2:54 | |||
Hãng đĩa |
| |||
Sáng tác |
| |||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự đĩa đơn của Aespa | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"Black Mamba" trên YouTube |
"Black Mamba" là đĩa đơn đầu tay của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Aespa. Ca khúc được SM Entertainment phát hành vào ngày 17 tháng 11 năm 2020, do Yoo Young-jin đồng sáng tác với Omega, Ella Isaacson, Gabriela Geneva (NIIVA), Jordan Reyes, Shaun Lopez và Scott Chesak. Về mặt âm nhạc, "Black Mamba" thuộc thể loại pop, electropop và dance-pop với âm thanh tổng hợp và EDM đặc trưng và âm trầm được kết hợp với một đoạn hook . Lời bài hát nói về một người được gọi là "Black Mamba" không chỉ can thiệp vào kết nối của các thành viên và avatar mà còn đe dọa thế giới của họ và vì vậy mà các thành viên ghê tởm.
Một video âm nhạc đi kèm cho bài hát đã được tải lên kênh YouTube của SM Entertainment đồng thời với việc phát hành đĩa đơn. Video âm nhạc của bài hát đã đạt được số lượt xem cao nhất đối với video đầu tay của một nhóm nhạc K-pop, với 21,4 triệu lượt xem trong 24 giờ. Về mặt thương mại, đĩa đơn đã lọt vào bảng xếp hạng ở năm quốc gia, đạt vị trí thứ 49 tại Hàn Quốc và vị trí thứ 5 trên Billboard World Digital Songs của Hoa Kỳ. Aespa đã quảng bá bài hát bằng các buổi biểu diễn trực tiếp trên truyền hình trên các chương trình âm nhạc khác nhau của Hàn Quốc bao gồm Show! Music Core, Music Bank và Inkigayo.
Hoàn cảnh ra đời và phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 26 tháng 10, SM Entertainment thông báo rằng họ sẽ ra mắt một nhóm nhạc nữ mới, nhóm đầu tiên kể từ Red Velvet vào năm 2014[4] và là nhóm nhạc thần tượng tổng thể đầu tiên kể từ NCT vào năm 2016. Các thành viên đã được tiết lộ riêng lẻ từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 10 (theo thứ tự: Winter, Karina, Ningning và Giselle). Chủ tịch SM Entertainment, ông Lee Soo-man đã giải thích thêm về khái niệm aespa trong Diễn đàn Công nghiệp Văn hóa Thế giới 2020 được tổ chức trực tuyến vào ngày 28 tháng 10.[5] Một đoạn giới thiệu video với cả bốn thành viên đã được tiết lộ vào ngày 2 tháng 11.[6] Cùng ngày, công ty thông báo rằng aespa sẽ phát hành đĩa đơn đầu tay "Black Mamba" vào ngày 17 tháng 11.[7] Teaser video âm nhạc được phát hành vào ngày 15 tháng 11, và bài hát chính thức ra mắt vào ngày 17 tháng 11.[8]
Sáng tác
[sửa | sửa mã nguồn]Ca khúc "Black Mamba" do Omega, Ella Isaacson, Gabriela Geneva (NIIVA), Jordan Reyes, Shaun Lopez, Scott Chesak và Yoo Young-jin sáng tác, với Yoo Young-jin, Shaun Lopez và Jordan Reyes tham gia sản xuất ca khúc.[9]
Bài hát thuộc thể loại pop điện tử và dance-pop với âm thanh synth đặc trưng, một đoạn hook có âm trầm làm nổi bật giọng hát tài năng của các cô gái.[3][10] Thời lượng của ca khúc này dài khoảng 2:54. Về mặt ca từ, bài hát mô tả về một sinh vật hình rắn được gọi là "Black Mamba" không chỉ cản trở sự kết nối của các thành viên với hình đại diện của họ mà còn đe dọa thế giới KWANGYA.[10] Đây là bài hát đầu tiên giải thích thế giới quan của aespa.[2]
Đón nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Bài hát ra mắt ở vị trí thứ 117 trên Bảng xếp hạng kỹ thuật số Gaon của Hàn Quốc với chỉ số Gaon là 4,439,664 trên bảng xếp hạng số ra ngày 15–21 tháng 11 năm 2020, cho đến khi đạt vị trí cao nhất ở vị trí 49, 3 tuần sau khi phát hành.[11][12] Nó cũng lần lượt ra mắt ở vị trí thứ 36 và 116 trên Bảng xếp hạng tải xuống và Bảng xếp hạng phát trực tuyến.[13][14] Cùng tuần, bài hát ra mắt ở vị trí thứ 5 trên Billboard World Digital Songs của Hoa Kỳ, mang lại cho Aespa bản hit đầu tiên của họ trên bảng xếp hạng này.[15] Trên bảng xếp hạng Global 200, "Black Mamba" đạt vị trí thứ 183 với 18,9 triệu lượt phát trực tuyến toàn cầu và 3.000 lượt tải xuống toàn cầu được bán ra.[16] Trong tuần thứ 2, bài hát đã tăng lên vị trí thứ 138. Tại New Zealand, bài hát đứng ở vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng RMNZ Hot Singles.[17]
Bảng xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng hàng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Bảng xếp hạng hàng tháng[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Herman, Tamar. “New K-pop girl group Aespa drop first single 'Black Mamba' with futuristic music video”. South China Morning Post. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020.
- ^ a b c Bell, Crystal (18 tháng 12 năm 2020). “The 40 Best K-Pop Songs of 2020”. PAPER. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Nhóm nhạc nữ mới của SM 'Aespa' sẽ ra mắt vào tháng tới, 6 năm kể từ khi Red Velvet ra mắt”.
- ^ “Soo-Man Lee, Chairman of SM Entertainment Group, Delivered a Speech at the 1st World Cultural Industry Forum as a Representative of the Korean Cultural Community!”. SM Entertainment. 28 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020.
- ^ aespa 에스파 - SYNK, æspa (Online video). South Korea: aespa. 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020 – qua YouTube.
- ^ Baek, Ji-eun (2 tháng 11 năm 2020). 'SM 신인 걸그룹' 에스파, 17일 데뷔확정…싱글 '블랙맘바' 전격공개 ['SM Rookie Girl Group' aespa, Debut on the 17th, Single 'Black Mamba' Unveiled]. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020.
- ^ aespa 에스파 'Black Mamba' MV (Online video). South Korea: SMTOWN. 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2020 – qua YouTube.
- ^ “Aespa - Black Mamba (Album Information)”. SM. 17 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2020 – qua Melon.
- ^ a b Jeon, A-Ram (12 tháng 11 năm 2020). "파워풀 댄스곡" 에스파 데뷔곡 '블랙맘바', 주문 외우는듯 '중독성 훅' ["Powerful Dance Song" Aespa's debut song 'Black Mamba', 'Addictive Hook' as if to Memorize a Spell]. X Sports News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020 – qua Daum.
- ^ 2020년 47주차 Digital Chart [2020, Week 47 Digital Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2020.
- ^ a b 2020년 49주차 Digital Chart [2020, Week 49 Digital Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2020.
- ^ 2020년 47주차 Download Chart [2020, Week 47 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
- ^ 2020년 47주차 Streaming Chart [2020, Week 47 Streaming Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
- ^ “World Digital Song Sales Chart”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2021.
- ^ a b “Billboard Global 200 Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2020.
- ^ a b “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
- ^ “Top 20 Most Streamed International & Domestic Singles In Malaysia”. Recording Industry Association of Malaysia. Recording Industry Association of Malaysia. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2020.
- ^ “RIAS International Top Charts Week 48”. Recording Industry Association (Singapore). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Billboard K-pop 100 – The week of December 12, 2020”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2020.
- ^ “World Digital Song Sales: November 28, 2020”. Billboard. 25 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2020.
- ^ “2020년 12월 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Billboard K-pop Hot 100 – Month of December 2020”. Billboard Korea (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
- ^ 2021년 Digital Chart [2021 Digital Chart] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2022.