Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Klagenfurt am Wörthersee”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 473: Dòng 473:
==Dân số==
==Dân số==
Tính đến tháng 1 năm 2020, có 101.403 người có nơi cư trú chính là Klagenfurt.<ref>{{Cite web|url=http://www.klagenfurt.at/die-stadt/statistik/staistik-aktuell/bevolkerung.html |title=Magistrat und Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörthersee – Population |website=www.klagenfurt.at |access-date=2016-04-28 |url-status=dead |archiveurl=https://web.archive.org/web/20160415190842/http://www.klagenfurt.at/die-stadt/statistik/staistik-aktuell/bevolkerung.html |archivedate=15 April 2016 }}</ref>
Tính đến tháng 1 năm 2020, có 101.403 người có nơi cư trú chính là Klagenfurt.<ref>{{Cite web|url=http://www.klagenfurt.at/die-stadt/statistik/staistik-aktuell/bevolkerung.html |title=Magistrat und Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörthersee – Population |website=www.klagenfurt.at |access-date=2016-04-28 |url-status=dead |archiveurl=https://web.archive.org/web/20160415190842/http://www.klagenfurt.at/die-stadt/statistik/staistik-aktuell/bevolkerung.html |archivedate=15 April 2016 }}</ref>
{{Historical populations
|align=left
|1910|45161
|1923|43536
|1934|53000
|1939|61286
|1951|68187
|1961|75684
|1971|82840
|1981|87321
|1991|89415
|2001|90141
|2011|94483
|2018|100316
}}
{| style="center" class="infobox"
{| style="center" class="infobox"
| colspan="2" |'''Nhóm cư dân nước ngoài lớn nhất'''<ref>{{cite web|title=Statistisches Jahrbuch der Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörthersee 2015|url=http://www.klagenfurt.at/_Resources/Persistent/bad34b9fca9f72aecc2ca454c5f1f8d3174ebe6d/Jahrbuch-2015.pdf|publisher=Magistrat der Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörtherse|accessdate=19 June 2015|url-status=dead|archiveurl=https://web.archive.org/web/20150904084313/http://www.klagenfurt.at/_Resources/Persistent/bad34b9fca9f72aecc2ca454c5f1f8d3174ebe6d/Jahrbuch-2015.pdf|archivedate=4 September 2015}}</ref>
| colspan="2" |'''Nhóm cư dân nước ngoài lớn nhất'''<ref>{{cite web|title=Statistisches Jahrbuch der Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörthersee 2015|url=http://www.klagenfurt.at/_Resources/Persistent/bad34b9fca9f72aecc2ca454c5f1f8d3174ebe6d/Jahrbuch-2015.pdf|publisher=Magistrat der Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörtherse|accessdate=19 June 2015|url-status=dead|archiveurl=https://web.archive.org/web/20150904084313/http://www.klagenfurt.at/_Resources/Persistent/bad34b9fca9f72aecc2ca454c5f1f8d3174ebe6d/Jahrbuch-2015.pdf|archivedate=4 September 2015}}</ref>
Dòng 495: Dòng 510:


Vào năm 2019, có khoảng 20.000 người sinh ra ở nước ngoài sống ở Klagenfurt, tương ứng với khoảng 20% dân số của thành phố.
Vào năm 2019, có khoảng 20.000 người sinh ra ở nước ngoài sống ở Klagenfurt, tương ứng với khoảng 20% dân số của thành phố.

== Kinh tế ==
== Kinh tế ==
Klagenfurt là trung tâm kinh tế của Carinthia, với 20% các công ty của bang đóng ở đây. Thời điểm tháng 5 năm 2001 có 63.618 lao động ở 6.184 công ty trong thành phố này, 33 công ty có hơn 200 nhân viên. Kinh tế dựa vào công nghiệp nhẹ, điện tử, du lịch.
Klagenfurt là trung tâm kinh tế của Carinthia, với 20% các công ty của bang đóng ở đây. Thời điểm tháng 5 năm 2001 có 63.618 lao động ở 6.184 công ty trong thành phố này, 33 công ty có hơn 200 nhân viên. Kinh tế dựa vào công nghiệp nhẹ, điện tử, du lịch.

Phiên bản lúc 07:49, ngày 1 tháng 12 năm 2020

Klagenfurt
Klagenfurt am Wörthersee
Klagenfurt
Klagenfurt
Huy hiệu của Klagenfurt
Huy hiệu
Location of within Statutarstadt district
Location of within Statutarstadt district
Klagenfurt trên bản đồ Carinthia
Klagenfurt
Klagenfurt
Klagenfurt trên bản đồ Áo
Klagenfurt
Klagenfurt
Vị trí của Klagenfurt trong Carinthia##Vị trí của Klagenfurt ở Áo
Quốc gia Áo
BangKärnten
QuậnThành phố pháp định
Chính quyền
 • Thị trưởngMaria-Luise Mathiaschitz (SPÖ)
Diện tích[1]
 • Tổng cộng120,12 km2 (4,638 mi2)
Độ cao446 m (1,463 ft)
Dân số (2018-01-01)[2][3]
 • Tổng cộng100.316
 • Mật độ8,4/km2 (22/mi2)
Múi giờCET (UTC+1)
 • Mùa hè (DST)CEST (UTC+2)
Mã bưu chính9020, 9061, 9063, 9065, 9073, 9201
Mã vùng0463
Biển số xe K
Thành phố kết nghĩaDachau, Dessau-Roßlau, Zalaegerszeg, Venlo, Nova Gorica, Gladsaxe Municipality, Tarragona, Nam Ninh, Rzeszów, Laval, Wiesbaden, Dushanbe, Chernivtsi, Gorizia, Nazareth, Sibiu, Udine, Nazareth Illit sửa dữ liệu
Trang webwww.klagenfurt.at

Klagenfurt am Wörthersee[4] (tiếng Đức: [ˌklaːɡn̩fʊʁt ʔam ˈvœʁtɐzeː] ; tiếng Bavaria: Klognfurt; tiếng Slovenia: Celovec ob Vrbskem jezeru),[5] thường được gọi là Klagenfurt (tiếng Anh: /ˈklɑːɡənfʊərt/ KLAH-gən-foort), là thành phố thủ phủ của bang Kärnten, Áo. Với dân số 101,303 người (ngày 1 tháng 1 năm 2020), đây là thành phố lớn thứ 6 ở quốc gia này. Thành phố là nơi đặt giám mục của Giáo phận Công giáo La Mã Gurk-Klagenfurt và là nơi có Đại học Klagenfurt, Đại học Khoa học Ứng dụng KärntenHọc viện Âm nhạc Gustav Mahler.

Địa lý

Vị trí

Thành phố Klagenfurt nằm ở miền nam nước Áo, nằm giữa đất nước, gần biên giới quốc tế. Nó nằm ở vùng dưới ở trung tâm Áo. Khoảng cách từ Klagenfurt đến Innsbruck ở phía tây bằng khoảng cách từ Klagenfurt đến Vienna ở phía đông bắc.

Klagenfurt có độ cao 446 mét (1.463 foot) so với mực nước biển và có diện tích 120,03 kilômét vuông (46,34 dặm vuông Anh)[chuyển đổi: số không hợp lệ]. Nó nằm trên hồ Wörthersee và trên sông Glan. Thành phố được bao quanh bởi một số ngọn đồi và núi có rừng bao phủ với độ cao lên đến 1.000 m (3.300 ft) (Ulrichsberg). Ở phía nam của thành phố là dãy núi Karawanken, ngăn cách Kärnten với các quốc gia có chung biên giới là SloveniaÝ.

Đơn vị hành chính

Klagenfurt được chia thành 15 phường:

  • I-IV Innere Stadt
  • V St. Veiter Vorstadt
  • VI Völkermarkter Vorstadt
  • VII Viktringer Vorstadt
  • VIII Villacher Vorstadt
  • IX Annabichl
  • X St. Peter
  • XI St. Ruprecht
  • XII St. Martin
  • XIII Viktring
  • XIV Wölfnitz
  • XV Hörtendorf
  • XVI Welzenegg

Các phường lại được chia thành 25 khu phố (Katastralgemeinde): Klagenfurt, Blasendorf, Ehrenthal, Goritschitzen, Großbuch, Großponfeld, Gurlitsch I, Hallegg, Hörtendorf, Kleinbuch, Lendorf, Marolla, Nagra, Neudorf, St. Martin bei Klagenfurt, St. Peter am Karlsberg, St. Peter bei Ebenthal, Sankt Peter am Bichl, St. Ruprecht bei Klagenfurt, Stein, Tentschach, Viktring, Waidmannsdorf, Waltendorf, và Welzenegg.

Khí hậu

Klagenfurt có khí hậu lục địa điển hình, có sương mù vào mùa Hè và mùa Đông. Mùa Đông khá lạnh nhưng có các đợt gió phơn từ núi Karawanken ấm ơn thổi vào. Nhiệt độ trung bình từ năm 1961 đến năm 1990 là 7,1 °C, còn nhiệt độ trung bình năm 2005 là 9,3 °C.

Dữ liệu khí hậu của Klagenfurt (1981–2010)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 15.7
(60.3)
21.5
(70.7)
24.0
(75.2)
27.0
(80.6)
32.4
(90.3)
35.3
(95.5)
35.8
(96.4)
36.6
(97.9)
30.7
(87.3)
25.2
(77.4)
21.5
(70.7)
16.6
(61.9)
36.6
(97.9)
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 0.6
(33.1)
4.8
(40.6)
10.7
(51.3)
15.6
(60.1)
21.0
(69.8)
24.2
(75.6)
26.5
(79.7)
25.6
(78.1)
20.7
(69.3)
14.6
(58.3)
6.7
(44.1)
1.1
(34.0)
14.3
(57.7)
Trung bình ngày °C (°F) −2.8
(27.0)
−0.4
(31.3)
4.3
(39.7)
9.3
(48.7)
14.4
(57.9)
17.8
(64.0)
19.8
(67.6)
19.0
(66.2)
14.3
(57.7)
9.3
(48.7)
3.1
(37.6)
−1.4
(29.5)
8.9
(48.0)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) −7.1
(19.2)
−5.6
(21.9)
−1.2
(29.8)
3.4
(38.1)
8.4
(47.1)
11.8
(53.2)
13.5
(56.3)
13.2
(55.8)
9.3
(48.7)
5.1
(41.2)
−0.2
(31.6)
−4.8
(23.4)
3.8
(38.8)
Thấp kỉ lục °C (°F) −25.1
(−13.2)
−25.6
(−14.1)
−18.8
(−1.8)
−5.9
(21.4)
−2.0
(28.4)
2.1
(35.8)
3.0
(37.4)
3.4
(38.1)
−1.0
(30.2)
−8.9
(16.0)
−17.4
(0.7)
−21.8
(−7.2)
−25.6
(−14.1)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 26
(1.0)
29
(1.1)
51
(2.0)
62
(2.4)
80
(3.1)
105
(4.1)
113
(4.4)
126
(5.0)
92
(3.6)
84
(3.3)
76
(3.0)
51
(2.0)
893
(35.2)
Độ ẩm tương đối trung bình (%) (at 14:00) 76.5 60.7 52.0 48.7 49.2 50.1 49.1 51.3 55.3 63.6 74.0 80.6 59.3
Số giờ nắng trung bình tháng 90 140 170 184 223 226 255 239 189 128 74 62 1.981
Phần trăm nắng có thể 35.7 53.3 49.8 48.9 50.8 51.1 57.1 57.6 53.0 41.3 27.0 24.8 45.9
Nguồn: Central Institute for Meteorology and Geodynamics[6][7][8][9][10]
Tòa thị chính Klagenfurt

Tên gọi

Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng ở Carinthia là Primus LessiakEberhard Kranzmayer cho rằng tên của thành phố dịch theo nghĩa đen là "nơi than khóc" (ford of lament) hoặc "nơi than thở" (ford of complaints), có liên quan gì đó đến suy nghĩ mê tín rằng các nàng tiên hoặc ác quỷ định mệnh có xu hướng sống quanh vùng nước nguy hiểm hoặc đầm lầy. Trong văn hóa Slovene cổ, cviljovec là một nơi bị ám bởi một hồn ma nữ khóc lóc hay cvilya.[12] Do đó, họ cho rằng tên của Klagenfurt là một bản dịch của những người Đức từ tên gốc trong tiếng Slovene của vùng đất ngập nước lân cận. Tuy nhiên, việc người Slovene đề cập đến Klagenfurt sớm nhất dưới dạng "v Zelouzi" ('in Celovec', tên người Slovene đặt cho Klagenfurt) có từ năm 1615[13] (cách đây hơn 400 năm) và do đó có thể là một bản dịch từ tiếng Đức. Mặt khác, cách giải thích mới nhất là bản thân từ cviljovec của người Slovene cổ trở lại thành l'aquiliu in nghiêng có nghĩa là một địa điểm tại hoặc dưới nước, điều này sẽ làm cho lý thuyết đầm lầy than khóc trở nên lỗi thời.[14]

Các học giả đã nhiều lần cố gắng giải thích cái tên đặc biệt của thành phố: Vào thế kỷ 14, tu viện trưởng kiêm nhà sử học Johann von Viktring đã dịch tên của Klagenfurt trong cuốn sử học Liber certarum của ông là Queremoniae Vadus, tức là "lời phàn nàn", Hieronymus Megiser, Bậc thầy của trường đại học Carinthian Estates ở Klagenfurt và là người biên tập cuốn lịch sử được in sớm nhất của công quốc vào năm 1612, được cho là đã tìm ra nguồn gốc của cái tên trong một "nơi đi qua sông Glan"[15], tuy nhiên, điều này là không thể lý do ngôn ngữ. Dân gian cũng có lời giải thích riêng như sau: Một người thợ làm bánh học việc bị buộc tội trộm cắp và bị xử tử nhưng khi vài ngày sau đó, hành vi trộm cắp được cho là do nhầm lẫn và anh ta được chứng minh là hoàn toàn vô tội, người dân "than thở" ( 'Klagen') đã đi tới đi lui". Câu chuyện này được kể lại bởi Aeneas Silvius Piccolomini, người sau này trở thành Giáo hoàng Piô II.[16]

Năm 2007, thành phố đổi tên chính thức thành "Klagenfurt am Wörthersee" (tức là Klagenfurt trên Hồ Wörthersee). Tuy nhiên, vì không có nơi nào khác mang tên Klagenfurt nữa nên cái tên ngắn hơn trước đó vẫn còn phổ biến.

Lịch sử

Thánh đường Klagenfurt và Domplatz
Công tước Bernhard von Spanheim, người sáng lập Thành phố

Truyền thuyết kể rằng Klagenfurt được thành lập sau khi một vài dũng sĩ đã giết chết "Lindwurm" đáng ghê tởm (một con rồng có cánh ở đồng hoang gần hồ, thường ăn thịt các trinh nữ). Truyền thuyết kể rằng con rồng đã bị đánh bại bởi một con bò đực béo trên sợi xích mà những người đàn ông đã gắn trên một tòa tháp vững chắc. Kỳ tích được tưởng nhớ bởi một tượng đài thời Phục hưng hoành tráng nặng 9 tấn ở trung tâm thành phố.

Trong lịch sử, nơi này được thành lập bởi Công tước Spanheim Herman như một thành trì nằm trên các tuyến đường thương mại trong khu vực. Lần đầu tiên nơi này được nhắc tới là từ cuối thế kỷ 12 trong một tài liệu trong đó Công tước Ulric II. Miễn phí cho Tu viện Thánh Paul ở "foro Chlagenvurth".[17] Khu định cư đó nằm trong khu vực thường xuyên bị ngập lụt, vì vậy vào năm 1246, con trai của Công tước Herman, Công tước Bernhard von Spanheim đã chuyển nó đến một vị trí an toàn hơn và do đó được coi là người sáng lập thực sự của khu chợ vào năm 1252 đã nhận được một hiến chương thành phố.

Trong những thế kỷ tiếp theo, Klagenfurt hứng chịu hỏa hoạn, động đất, nạn châu chấu và các cuộc tấn công từ người Ottoman Hồi giáo và bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh nông dân. Năm 1514, một trận hỏa hoạn gần như thiêu rụi hoàn toàn thành phố và vào năm 1518, Hoàng đế Maximilian I đã không đủ khả năng xây dựng lại nó. Dù bị người dân phản đối, ông đã nhượng lại Klagenfurt cho giới quý tộc của Công quốc. Trước đây chưa từng có chuyện như vậy xảy ra. Tuy nhiên, các chủ sở hữu mới đã mang lại sự phục hưng kinh tế và sự thăng tiến về chính trị và văn hóa ở Klagenfurt. Một con kênh được đào để nối thành phố với hồ như một con đường vận chuyển gỗ để xây dựng lại thành phố và đào những con hào mới của thành phố; các gia đình quý tộc có những ngôi nhà phố được xây dựng ở thủ đô mới của công quốc; thành phố được mở rộng theo hình bàn cờ hình học theo ý tưởng thời Phục hưng của kiến trúc sư người Ý Domenico dell'Allio; quảng trường trung tâm thành phố mới Neuer Platz được xây dựng và những công sự mới tốn nửa thế kỷ xây dựng đã biến Klagenfurt trở thành pháo đài hùng mạnh nhất ở phía bắc dãy Alps.

Vào năm 1809, quân đội Pháp (dưới thời Napoléon) trước khi rời đi đã phá hủy các bức tường thành, đổi lấy một số tiền lớn do người dân thu thập được, chỉ có một cổng phía đông (đã được kéo xuống để mở đường cho giao thông vài thập kỷ sau đó) và cổng nhỏ trải dài ở phía tây mà bây giờ là tất cả những gì còn lại của các công sự vĩ đại một thời. Năm 1863, kết nối đường sắt đến Sankt Veit an der Glan và việc xây dựng tuyến đường sắt Vienna-Trieste đã thúc đẩy nền kinh tế của thành phố, mang đến cho thành phố một nhà ga trung tâm hùng vĩ (bị phá hủy trong Thế chiến thứ hai) và củng cố vai trò của Klagenfurt là trung tâm của vùng.

Tòa thị chính cũ, Alter Platz.

Trong thế kỷ 19, thành phố đã phát triển thành một trung tâm văn hóa quan trọng của người Slovene ở Carinthia. Nhiều nhân vật quan trọng trong cộng đồng người Slovene đã sống, học tập hoặc làm việc ở Klagenfurt, nổi bật trong số đó có Anton Martin Slomšek, người sau này trở thành giám mục đầu tiên ở Maribor và được phong chân phước vào năm 1999, các nhà ngữ văn Jurij JapeljAnton Janežič, chính trị gia Andrej Einspieler và nhà hoạt động Matija Majar. Nhà thơ dân tộc người Slovene France Prešeren cũng đã dành một thời gian ngắn trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình ở đó. Vào ngày 27 tháng 7 năm 1851, theo ý của giám mục Slomšek, giáo viên Anton Janežič và cha sở Andrej Einspieler, nhà xuất bản Hội Mohorjeva được thành lập tại Klagenfurt[18] và vào năm 1919, hội này chuyển đến Prevalje và sau đó đến Celje vào năm 1927 nhưng được tái thành lập ở Klagenfurt năm 1947. Một số tờ báo tiếng Slovene cũng đã được xuất bản tại thành phố, trong số đó có tờ Slovenski glasnik. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, ảnh hưởng văn hóa và chính trị của người Slovene ở Klagenfurt đã giảm mạnh và vào cuối Thế chiến thứ nhất, thành phố này đã thể hiện đặc trưng của người Đức thuộc Áo.

Tuy nhiên, vào năm 1919, thành phố bị Quân đội của Vương quốc của người Serb, người Croatia và người Slovene (Vương quốc Nam Tư) chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền. Năm 1920, lực lượng chiếm đóng Nam Tư rút khỏi trung tâm thị trấn nhưng vẫn ở các vùng ngoại ô phía nam như ViktringEbenthal. Cuối cùng, họ đã rút lui sau cuộc trưng cầu dân ý Carinthia vào tháng 10 năm 1920, khi đa số cử tri ở Khu vực A dùng đa ngôn ngữ quyết định Carinthia vẫn là một phần của Áo.

Năm 1938, dân số Klagenfurt tăng đột ngột hơn 50% do hợp nhất với thị trấn St. Ruprecht và các thành phố tự trị St. Peter, AnnabichlSt. Martin. Trong Thế chiến thứ hai, thành phố đã bị đánh bom 41 lần. Các vụ đánh bom đã giết chết 612 người, phá hủy hoàn toàn 443 tòa nhà và làm hư hại 1.132 tòa nhà khác. Một khối lượng 110.000 mét khối (3.884.613 ft khối) của đống đổ nát đã phải được dọn đi trước khi người dân có thể bắt đầu xây dựng lại thành phố.

Để tránh bị tàn phá thêm và đổ máu lớn, vào ngày 3 tháng 5 năm 1945, Tướng Löhr của Tập đoàn quân E (Heeresgruppe E) đồng ý tuyên bố Klagenfurt là một "thành phố mở" "trong trường hợp các lực lượng Anh-Mỹ tấn công thành phố", một tuyên bố rằng được phát sóng nhiều lần và hai ngày sau đó cũng được xuất bản trên Kärntner Nachrichten.[19]

Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, 9:30 sáng, Tập đoàn quân số 8 Lục quân Anh dưới sự chỉ huy của Tướng McCreery tiến vào Klagenfurt và được gặp chính quyền nhà nước và thành phố dân chủ mới tại Stauderhaus. Tất cả các vị trí chiến lược và các công trình quan trọng ngay lập tức bị chiếm giữ, Thiếu tướng Horatius Murray được đưa đến gặp Tướng Noeldechen để chính thức tiep nhận sự đầu hàng của Sư đoàn 438 Đức. Ba giờ sau, các nhóm lực lượng du kích đã đến trên một xe lửa chiếm giữ được ở thung lũng Rosental một ngày trước đó, cùng lúc với quân đoàn IV chính quy Nam Tư.[20] Cả hai bên đều băng qua các đường phố của thành phố, nơi có hàng chục nghìn người tị nạn Volksdeutsche và hàng loạt binh lính thuộc mọi quốc tịch đã chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đức và hiện đang chạy trốn khỏi người Nga. Các lực lượng du kích và quân chính quy Nam Tư đều tuyên bố chủ quyền với thành phố và vùng đất Nam Carinthia xung quanh, thành lập Komanda sta za Koroška, được đặt tên là "Bộ chỉ huy Quân khu Carinthia" dưới quyền Thiếu tá Egon Remec[21]. Neuer Platz - được đổi tên thành Adolf Hitler Platz vào năm 1938 - những chiếc xe bọc thép của Anh[22] được cho là đã đối mặt với xe bọc thép đồng minh của Nam Tư với thái độ thù địch, đó là một cảnh tượng gây tò mò cho những công dân được giải phóng nhưng đây có lẽ là một trong những truyền thuyết thời hiện đại.

Từ đầu năm 1945, khi triển vọng chiến tranh kết thúc khá rõ ràng, nhiều cuộc đàm phán giữa các đại diện của các tổ chức dân chủ trước năm 1934 đã diễn ra, sau đó mở rộng đến các sĩ quan cấp cao của Wehrmacht và các quan chức chính quyền. Ngay cả đại diện của du kích ở các ngọn đồi phía nam Klagenfurt cũng đã được gặp những người được cho là của một lực lượng SS mạnh ở Klagenfurt để thỏa thuận việc không cố gắng chiếm thành phố bằng vũ lực[23] nhưng vẫn giữ nguyên tuyên bố chính thức rằng vùng đông nam Carinthia là thuộc sở hữu của Nam Tư.[24]

Vào ngày 7 tháng 5 năm 1945, một ủy ban được triệu tập tại tòa nhà Landhaus cổ của chính quyền Gau để thành lập chính phủ Nhà nước Lâm thời và một trong nhiều quyết định được đưa ra là tuyên ngôn của "Nhân dân Carinthia". Tuyên bố này bao gồm báo cáo về việc từ chức của GauleiterReichsstatthalter, Friedrich Rainer, việc chuyển giao quyền lực cho chính quyền mới và lời kêu gọi người dân cờ Áo hay Carinthia. Tuyên ngôn đã được in trên Kärntner Zeitung ngày 8 tháng 5. Vào ngày hôm sau, quân đội Nam Tư yêu cầu thị trưởng mới của Klagenfurt phải hạ cờ Áo khỏi tòa thị chính và treo cờ Nam Tư thay thế, Cảnh sát thị trấn người Anh Cptn. Watson ngay lập tức cấm việc này nhưng cũng ra lệnh hạ lá cờ Áo.[25] Cùng ngày, một đội quân du kích mang theo súng máy, một phái viên Nam Tư đã xuất hiện tại tòa nhà Landesregierung, yêu cầu Quyền Thống đốc bang Piesch hủy bỏ lệnh hạ cờ Nam Tư nhưng đã bị phớt lờ.

Vài ngày trôi qua trước đó, dưới áp lực của Anh với sự hậu thuẫn ngoại giao của Hoa Kỳ, quân đội Nam Tư đã rút khỏi thành phố[26] trước khi thành lập một chính quyền dân sự song song Carinthia-Slovene (Hội đồng quốc gia Carinthia) do Franc Petek chủ trì. Tuy nhiên, được sự bảo vệ của binh lính Anh, các thành viên của Chính phủ Quốc gia Lâm thời đã lên kế hoạch đưa ra một chương trình toàn diện về các triển vọng chính trị, xã hội và kinh tế mới tại vùng đất này để phục vụ sự tiếp quản của quân đội Anh. Hỗ trợ tài chính và bồi thường tài sản nhanh chóng cho các nạn nhân của chế độ Quốc xã là cần thiết. Điều này đặt ra một vấn đề vì một trong những hành động đầu tiên của người Anh là tịch thu tất cả tài sản của Đảng Quốc xã cũng như đóng băng tài khoản ngân hàng và phong tỏa các khoản chuyển tiền của họ. Phải mất vài tháng trước khi thông tin liên lạc cơ bản và giao thông công cộng, dịch vụ thư tín và cung cấp nhu yếu phẩm hoạt động trở lại ở một mức độ nào đó. Trong những năm tiếp theo những ngày hỗn loạn này, một bộ phận lớn của Tập đoàn quân số 8 của Anh được tái thành lập thành Lục quân Anh ở Áo (BTA) vào tháng 7 năm 1945, có trụ sở chính tại Klagenfurt - Carinthia, cùng với bang láng giềng Styria, được thành lập một phần của khu vực chiếm đóng của Anh ở nước Áo giải phóng. Khu vực này vẫn được giữ nguyên cho đến ngày 26 tháng 10 năm 1955.

"Landhaus", cung điện của giới quý tộc, bây giờ là Nghị viện Bang.
Sân có mái vòm trong tòa thị chính cũ.
Tượng Thánh Peter, Rome ở Minimundus.
Loretto sau khi cải tạo 2007.
Lâu đài Tentschach.

Năm 1961, Klagenfurt trở thành thành phố đầu tiên ở Áo có khu vực dành riêng cho người đi bộ. Ý tưởng về sự kết nghĩa hữu nghị của các thành phố ở các quốc gia khác bắt đầu từ mối quan hệ đối tác thành phố đầu tiên giữa Klagenfurt và Wiesbaden, Đức vào đầu năm 1930. Điều này được tiếp nối bởi nhiều quan hệ đối tác thành phố, kết quả là vào năm 1968, Klagenfurt đã được vinh danh với danh hiệu “Thành phố Châu Âu của năm”. Klagenfurt cũng đã được trao tặng Bằng khen Europa Nostra danh giá (một giải thưởng cho việc khôi phục và tái phát triển trung tâm cổ kính của nó) tổng cộng ba lần, đây là một kỷ lục đối với một thành phố châu Âu.

Năm 1973, Klagenfurt sáp nhập thêm bốn thành phố tự trị liền kề: Viktring với tu viện dòng Xitô lớn; Wölfnitz; Hörtendorf; và St. Peter am Bichl. Việc bổ sung các thành phố tự trị này đã làm tăng dân số của Klagenfurt lên khoảng 90.000 người.

Dân số

Tính đến tháng 1 năm 2020, có 101.403 người có nơi cư trú chính là Klagenfurt.[27]

Lịch sử dân số
NămSố dân±%
191045.161—    
192343.536−3.6%
193453.000+21.7%
193961.286+15.6%
195168.187+11.3%
196175.684+11.0%
197182.840+9.5%
198187.321+5.4%
199189.415+2.4%
200190.141+0.8%
201194.483+4.8%
2018100.316+6.2%
Nhóm cư dân nước ngoài lớn nhất[28]
Quốc tịch Dân số (2018)
 Bosna và Hercegovina 2,465
 Đức 1,977
 Croatia 1,695
 Slovenia 1,342
 Romania 832
 Ý 650
 Afghanistan 626

Vào năm 2019, có khoảng 20.000 người sinh ra ở nước ngoài sống ở Klagenfurt, tương ứng với khoảng 20% dân số của thành phố.

Kinh tế

Klagenfurt là trung tâm kinh tế của Carinthia, với 20% các công ty của bang đóng ở đây. Thời điểm tháng 5 năm 2001 có 63.618 lao động ở 6.184 công ty trong thành phố này, 33 công ty có hơn 200 nhân viên. Kinh tế dựa vào công nghiệp nhẹ, điện tử, du lịch. Sân bay Klagenfurt là một sân bay quốc tế với các tuyến bay châu Âu.

Cư dân nổi tiếng

Hình ảnhy

Đô thị kết nghĩa

Thành phố Klagenfurt's sister cities:

Tham khảo

  1. ^ “Dauersiedlungsraum der Gemeinden Politischen Bezirke und Bundesländer - Gebietsstand 1.1.2018”. Statistics Austria. Truy cập 10 tháng 3 năm 2019.
  2. ^ Population at the beginning of the year for municipalities since 2002 (bằng tiếng Đức), Statistics Austria, tháng 1 năm 2023, Wikidata Q27838750
  3. ^ “Einwohnerzahl 1.1.2018 nach Gemeinden mit Status, Gebietsstand 1.1.2018”. Statistics Austria. Truy cập 9 tháng 3 năm 2019.
  4. ^ Landesgesetzblatt 2008 vom 16. Jänner 2008, Stück 1, Nr. 1: Gesetz vom 25. Oktober 2007, mit dem die Kärntner Landesverfassung und das Klagenfurter Stadtrecht 1998 geändert werden. (link)
  5. ^ Kattnig, Franc; Zerzer, Janko (1982). Dvojezična Koroška/Zweisprachiges Kärnten (bằng tiếng Slovenia và Đức). Klagenfurt: Mohorjeva/Hermagoras. tr. 14.
  6. ^ “Klimamittel 1981–2010: Lufttemperatur” (bằng tiếng German). Central Institute for Meteorology and Geodynamics. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  7. ^ “Klimamittel 1981–2010: Niederschlag” (bằng tiếng German). Central Institute for Meteorology and Geodynamics. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  8. ^ “Klimamittel 1981–2010: Schnee” (bằng tiếng German). Central Institute for Meteorology and Geodynamics. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  9. ^ “Klimamittel 1981–2010: Luftfeuchtigkeit” (bằng tiếng German). Central Institute for Meteorology and Geodynamics. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  10. ^ “Klimamittel 1981–2010: Strahlung” (bằng tiếng German). Central Institute for Meteorology and Geodynamics. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  11. ^ “Klimadaten von Österreich 1971–2000 – Kärnten-Klagenfurt” (bằng tiếng German). Central Institute for Meteorology and Geodynamics. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ Eberhard Kranzmayer, Ortsnamenbuch von Kärnten. Part II, Klagenfurt 1958, p. 119.
  13. ^ Dieter Jandl, A Brief History of Klagenfurt, revised edition, Klagenfurt 2007, p.8
  14. ^ Heinz Dieter Pohl, Kärnten. Deutsche und slowenische Namen/Koroška. Slovenska in nemška imena. In: Österreichische Namenforschung28 (2000), vols. 2–3, Klagenfurt 2000, p. 83; and also:
    Paul Gleirscher, Wie Aquiliu zu Klagenfurt wurde. In: Paul Gleirscher, Mystisches Kärnten. Sagenhaftes, Verborgenes, Ergrabenes, Klagenfurt 2007, pp. 59–65.
  15. ^ Pohl, p. 83
  16. ^ Jandl, p. 14
  17. ^ Jandl, p. 7
  18. ^ Janez Jeromen: 150th Anniversary of "Mohorjeva družba" Publishing House. Pošta Slovenije, Ljubljana 2001
  19. ^ August Walzl, Kärnten 1946. Vom NS-Regime zur Besatzungsherrschaft im Alpen-Adria-Raum. Klagenfurt: Universitätsverlag Carinthia 1985, ISBN 3-85378-235-3, p. 117
  20. ^ August Walzl, Kärnten 1946, p. 176f, p. 194.
    All the Western sources agree on that date, contrary to Yugoslav or Slovene sources.
    Karel Pušnik-Gašper and others, Gemsen auf der Lawine. Der Partisanenkampf in Kärnten, Klagenfurt: Drava 1980, pp.305 ff., still claims that Yugoslav partisan forces liberated Klagenfurt on 7 May, disarming the last Hitler units.
    Similarly, the Bulgarian publication Otecestvenata vojna na Bulgarija 1944–1945, Sofia 1965, vol. 3, p. 258 writes of the plans for an advance as far as Klagenfurt and Villach. This advance, however, came to a halt at Lavamünd, cf. Walzl, Kärnten 1945, pp. 178 f., 225 f., 241.
  21. ^ Zbornik dokumentov in podatkov v narodno osvobodilni vojni jugoslovanskih narodov. Part 6, vol. 12, Ljubljana 1953–1965, pp. 493 ff.
  22. ^ Photos in August Walzl, Kärnten 1945, pp. 326, 327
  23. ^ August Walzl, Kärnten 1945, p. 127 f.
  24. ^ Josef Rausch, Der Partisanenkampf in Kärnten im Zweiten Weltkrieg (= Militärhistorische Schriftenreihe 39/40), Vienna 1979; August Walzl, Kärnten 1945, p. 127, 156
  25. ^ August Walzl, Kärnten 1945, p. 197
  26. ^ Report of Field Marshal Alexander to the Combined Chief of Staffs of 15 May 1945 WO 202/319/040927 (Public Record Office London: War Office, unpublished), in: Walzl, Kärnten 1945, p. 224
  27. ^ “Magistrat und Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörthersee – Population”. www.klagenfurt.at. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2016.
  28. ^ “Statistisches Jahrbuch der Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörthersee 2015” (PDF). Magistrat der Landeshauptstadt Klagenfurt am Wörtherse. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2015.

Liên kết ngoài


edit Các thành phố và huyện (Bezirke) của Kärnten Flag of Austria
Carinthia map

Klagenfurt am Wörthersee | Villach
Feldkirchen | Hermagor | Klagenfurt-Land | Spittal an der Drau | St. Veit an der Glan | Villach-Land | Völkermarkt | Wolfsberg