Tổng hợp Văn 12 (cả năm)
Tổng hợp Văn 12 (cả năm)
Tổng hợp Văn 12 (cả năm)
Người ta hay nhắc lại tính mê chủ nghĩa xê dịch kiểu Nguyễn
Tuân của tác giả Tây Tiến. Nhà văn Đỗ Chu, trong một lần
hợp mặt bạn văn kháng chiến đã bật mí về một quãng đời đầy
chất lãng mạn của Quang Dũng. Nhà thơ rủ một người bạn
họa sĩ nổi tiếng ở Thủ đô, tạo một chiếc xe trâu định hành
phương Nam. Trên đường đi, hai người định kiếm ăn độ nhật
bằng cách ghé vào những nơi phố xá, chỗ đông người vẽ
tranh bán vì Quang Dũng cũng là một tay vẽ giỏi. Đi giữa
Những tháng học ở trường, tôi nhớ mãi hình ảnh vị giáo sư
quân sự người Nhật như một kiểu mẫu sĩ quan mà chúng tôi
mơ ước và kính nể. Giáo sư có cái tên Việt Nam là Lâm Sơn.
Để hiểu rõ hơn về tác giả Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến", Đại tá Lâm Sơn. Ông là sĩ quan cao cấp trong Bộ chỉ huy,
các em có thể tham khảo bài báo dưới đây được ghi lại bởi thành lập từ ngày đầu kháng chiến. Giáo sư lên lớp bằng
VŨ VĂN SỸ (GHI THEO LỜI KỂ CỦA NHÀ THƠ tiếng Nhật, có người thông ngôn. Giọng ông sang sảng nghe
QUANG DŨNG) đầy
Đối với tôi, những ngày Tây Tiến không hẳn là những ngày in uy quyền. Kỷ luật trong trường quân sự hồi đó rất nghiêm
kỷ niệm sâu sắc hơn cả. Nhưng có lẽ nhiều người hay hỏi về khắc, nếu như bây giờ có thể gọi là “quân phiệt”. Giờ học đã
bài thơ Tây Tiến của tôi viết ở giai đoạn này. đành, giờ nghỉ cũng rất “khuôn phép”. Có lần tôi uống cà
Tôi nhập ngũ đúng ngày Cách mạng tháng Tám thành công. phê
Năm đó tôi hai mươi sáu tuổi. Trước cách mạng, tôi học Ban về muộn, cảnh vệ bắt được, cứ lo như ngày nhỏ trốn học bị .
trung học trường Thăng Long. Tốt nghiệp, tôi đi dạy học Anh biết sau đótôi bị phạt thế nào không? Sáng thứ hai đầu
tư ở Sơn Tây để kiếm sống. Những ngày đầu vào quân đội, tôi tuần, sau lúc chào cờ, đại tá bắt tôi bò bốn vòng quanh cột
nhận công tác ở Phòng công vụ Bắc Bộ. Phòng này cờ. Tôi bò một cách tự giác, bởi nghĩa rằng , đã mặc áo lính
do anh Nguyễn Văn Chân phụ trách. Tôi làm phái viên của tất phải chịu những hình phạt đại loại như thế, nếu như mình
phòng, có nhiệm vụ đi thu mua vũ khí ở vùng Hà Nam – Sơn vi phạm kỉ luật.
Tây. Thấy tôi có chút học hành, lại yêu mến văn chương, anh Có lần Bác Hồ đến thăm trường. Tôi nhớ Bác còn nói cho
Chân liền giới thiệu tôi lên chiến khu làm công tác báo chí. chúng tôi nghe một cuốn sách viết về chiến tranh du kích.
Ngày đó văn hóa, văn nghệ, báo chí, tuyên truyền trong quan Vốn giàu óc tưởng tượng về hành động chiến đấu của người
niệm và cả trong công việc, ranh giới không rõ. Như vậy là lính, tôi rất thú hình ảnh người du kích. Bac nói: “lại vô ảnh,
“sựnghiệp” văn chương của tôi bắt đầu bằng nghề báo. Tôi khứ vô hình”, nghĩa là đến và đi không ai thấy. Chỉ nội mấy
trở thành phóng viên tiền phương của tờ báo Chiến đấu thuộc cái âm chữ Hán, đọc lên nghe đã xuất quỷ nhập thần rồi,
Khu II. Tờ báo do anh Văn Phác phụ trách, sau này, anh Văn chưa
Doãn lên thay. nói đến việc vận dụng nó vào chiến thuật quân sự.
Tôi yêu thơ và làm thơ hoàn toàn ngẫu nhiên. Thời đi học tôi Hôm bế mạc lớp, đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu
rất mê Đường chi tam bách thủ, nhất là những bài dịch của trưởng quân đội, và đồng chí Đàm Quang Trung, có đến dự
nhà thơ Tản Đà. Tôi cũng say thơ mới như bất cứ một học và nói chuyện. Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây Tiến, tức
sinh nào thời đó. Nhưng tôi thích thơ Thế lữ hơn cả, đặc biệt là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn làm Trung đoàn trưởng. Tôi
bài Nhớ rừng, bởi tâm trạng sơn dã của nó. Một nhà văn nữa ở đại đội bộ, làm đại đội trưởng. Tiểu đoàn 212 của tôi là
là Thạch Lam. Thạch Lam không chỉ viết văn mà còn dịch tiểu đoàn trước đây đã từng làm náo động các sân bay Cát
những bài thơ văn xuôi của Pháp. Và có lẽ tôi tiếp thu được Bi, Bạch Mai... bây giờ chuyển sang nhận nhiệm
gì ở thơ ca Pháp ngày ấy, cũng do đọc các bản dịch này. Khi vụ Tây Tiến.
làm công tác báo chí tôi lại càng thấy thích văn phong của Tây Tiến là một chiến dịch tiến quân từ Khu III, Khu IV lên
Thạch Lam. Hà Nội ba mươi sáu phố phường của Thạch Lam Khu X tức là Tây Bắc, vùng Điện Biên Phủ. Đây là chiến dịch
là một tập bút ký giàu chất thơ. Nhưng phải nói đến một cuốn có ý nghĩa chiến lược. Năm 1945 khi khắp nơi nổi dậy
tiểu thuyết của nhà văn Nga Gôgôn: Tarax Bunba. Tôi cướp chính quyền thì nhân dân vùng này nhiều nơi vẫn chưa
yêu những con người Cô dắc dũng cảm, yêu tự do, sống được giác ngộ cách mạng. Năm 1946, trung đoàn Sơn La có
phóng khoáng, gắn bó với thanh gươm, yên ngựa và những đánh vào Tây Bắc, nhưng mới chỉ có ý nghĩa thăm dò. Đầu
chiến công trên những thảo nguyên mênh mông như những năm 1947 ta thành lập Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm
chiến khu di động chống lại bọn phong kiến xâm lược bảo vệ các chiến sĩ tình nguyện của Khu III, Khu IV và tự vệ Thành
nền độc lập dân tộc. Tôi thấy có một sự đồng cảm nào đó Hà Nội trước thuộc Trung đoàn Thủ đô. Đợt Tây Tiến đầu
giữa mình với các nhân vật của truyện. Sau này đi Tây Tiến, tiên, ta đánh sâu nhưng phải rút lui ngay, vì lực lượng địch
tôi vẫn còn mang Tarax Bunba theo trong ba lô của mình. tập trung và mạnh. Tôi đi đợt hai. Nhiệm vụ của chúng tôi là
Tôi ở báo Chiến đấu đến đầu năm 1947 thì được điều đi học mở đường qua đất Tây Bắc. Một nhiệm vụ không kém phần
Trường bổ túc Trung cấp (tức Trường bổ túc trung cấp quân quan trọng là công tác dân vận gây dựng cơ sở, tranh thủ sự
sự Sơn Tây). Trường chuyên bổ túc kỹ thuật quân sự cho giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ đại đội
cán bộ chuẩn bị nhận nhiệm vụ chiến đấu mới. trưởng, tôi còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào -
Việc mặc áo lính, và là một cán bộ trong quân đội, đối với tôi Việt.
ngày ấy có ý nghĩa thiêng liêng và tự hào lắm. Giai đoạn này Hà Nội đang có tiếng súng ở ngoại thành.
Chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây. Lúc đầu rất đàng hoàng đi
bằng ô tô, các ôtô nổi tiếng lúc bấy giờ như của hãng Con
Thỏ, Trung Hà, Từ Đường, Mỹ Lâm... đều được Chính phủ Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, tôi về làm trưởng
công làm nhiệm vụ quân sự. Chúng tôi đi qua đường số 6 qua tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52... Rồi làm trưởng
suổi Rút. Thị trấn Hòa Bình năm ấy còn tự do. Sau, chúng tôi đoàn Văn nghệ Liên khu III.Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ.
chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Còn cái trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như sau nàyđược
Tiến: ăn rừng, ngủ rừng. phân chia, bổ sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.
Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, Nhận xét về tác giả và tác phẩm
những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường 1. “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến,
Hịch cọp trêu người”, rồi rải rác dọc biên cương những ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập
như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. - Vũ Quần Phương
“nấm mồ viễn xứ”... tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất
2. “Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng,
thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ, mà sau một bài thơ được kỷ niệm 60 năm ngày sáng tác (năm 2008), một bài
này vô tình tôi mới nhận ra... trong bài thơ Tây Tiến, tôi còn thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường
viết “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc”. Hồi ấy trong đoàn tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong
chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”. - Nhà phê bình văn học
gian khổ, thiếu thốn, mình lại không giữ vệ sinh, và lại có giữ Nguyễn Xuân Nguyên
cũng chả được, nên bộ đội không những bị ốm, mà còn chết 3. Nhà thơ Quang Dũng khu biệt độc lập như một ốc đảo cheo leo giữa
biển khơi xa vắng và lẻ loi hiu quạnh như một vì sao cô độc trong
vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân, cứ mỗi
không gian văn chương kháng chiến, nhưng là một người thơ (2) tài
lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà trưởng năng hiếm hoi, không khác chi một loài hoa lạ ngan ngát hương rừng.
thôn để tiễn một con người vĩnh biệt rừng núi. Tiếng cồng ở Với những bài thơ xuất sắc được nhiều người, đa phần là sinh viên
Tây Tiến thật buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi học sinh và cả những chiến sĩ cách mạng và lính cộng hòa ưa thích,
vẫn nghe văng vẳng tiếng cồng. Anh Như Trang hồi ấy là tiểu Quang Dũng, tác giả “Tây Tiến” xứng đáng là ngòi bút thơ áo lính tài
đoàn phó, có viết ca khúc tiếng cồng quân y là vì vậy. hoa trong thi đàn dân tộc. - Nguyễn Thanh
4. Nhà thơ Quang Dũng như "bóng mây qua đỉnh Việt" và là một áng
Đối với miền Tây, gay nhất là thuốc, vì đường tiếp tế rất khó.
mây bay qua sông núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá
Tôi nhớ có lần được thuốctừ Khu II gửi lên. Cụ Thi Sơn trong cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy. - Nhà thơ Vân Long
Mặt trận Liên Việt tặng thuốc (nguyên cụ Thi Sơn là tướng 5. “Quang Dũng cũng là một cây bút năng nổ, người ta còn nhớ tên bài
của Đề Thám). Trong buổi lễ trao thuốc long trọng này, Anh bút ký ‘Xiếc khỉ’ của ông nhưng cần biết rằng bài đó nằm trong cả loạt
Hồng Thanh, chính uỷ Trung đoàn, đã thay mặt bộ đội nhận bút ký mà Quang Dũng gọi là “tập ảnh” về các sinh hoạt văn hóa văn
thuốc. Anh còn làm cả thơ. Tôi còn nhớ mấy câu: nghệ ngoài đời thường của dân thường ở vùng Hà Nội đương thời.”
Một buổi sớm mọi người đều hoan hỉ - Lại Nguyễn Ân
6. “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc
Từ bệnh nhân đến bác sĩ đều vui
câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí
Vì được tin kháng chiến chiến Khu II tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc
Vừa gửi tặng 3.000 viên thuốc sốt... binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ.“
Không hiểu cảm động vì có thuốc hay vì nghe thơ, mà anh - Nhà thơ Phan Quế
Hồng Thanh đọc xong, ai cũng rưng rưng nước mắt... 7. “Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được
Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy
não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt
gian khổ, thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống,
của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc
nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội
thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự
ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến
đã ngã xuống giữa đường. Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm
Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh (thuộc hưởng chủ đạo của bài thơ này...” .
– Vũ Thu Hương, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng
tỉnh Hà Đông cũ nay thuộc về Hà Nội). Tôi làm thơ rất
8. “... Tây Tiến- tượng đài bất tử về người lính vô danh...”
nhanh, làm xong đọc trước Đại hội, được mọi người hoan
- Vũ Thu Hương
nghê liệt nhiệt. Nhân có Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu nhà 9. “... Tây Tiến ... nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi
văn rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ
ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng
cho in ngay ở Tạp chí Văn nghệ. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây
của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút lý luận gì về Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ... Tất
cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi
thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào khí của lãng mạn
tên...”. – Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng
một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc... 10. “...Tây Tiến- sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn”
Từ Tây Tiến trở đi tôi làm nhiều thơ hơn. Các bài Đường - Đinh Minh Hằng
mươi hai, Ngược đường số 6, Đôi mắt người Sơn Tây cũng là 11. “... Tôi làm bài thơ này rất nhanh. Làm xong, đọc trước đại hội
những bài thơ mà tôi thích. được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc
của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả chút lị luận gì về thơ cả...” - ● Đặc tả độ cao của núi rừng núi Tây Bắc
Quang Dũng ● Chất lính: sự dí dỏm, vui nhộn, lạc quan, yêu đời
● Núi: cao thì cao vời vợi
● Vực: sâu thì sâu thăm thẳm
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM
Bố cục phân tích: - Đối: lên, xuống ; ngàn thước: khoảng cách lớn
=> Hiểm trở => Người đọc giống như đang “chơi 1 trò bập bênh
1 14 câu thơ đầu: Hình ảnh người lính Tây Tiến 2-2 -4 -2–2-2 chóng mặt”
gắn liền với thiên nhiên miền Tây và những - Nơi đèo cao, dốc đứng, người lính đưa tầm mắt nhìn về những
chặng đường hành quân gian khổ.
bản làng
2 8 câu thơ tiếp: Kỷ niệm về đêm liên hoan văn 4-4
nghệ đốt lửa trại và buổi chiều sông nước Tây + Hình ảnh những nếp nhà Pha Luông ẩn hiện trong làn mưa
Bắc mênh mang, mờ ảo. + Gợi ra sự bình yên trong chính cảnh vật và trong cả tâm hồn
3 8 câu thơ tiếp: Hình tượng người lính Tây Tiến 2-2-4 người lính.
hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. => Quang Dũng kéo người đọc trở về với sự cân bằng.
4 4 câu thơ cuối: Khúc vĩ thanh 2-2 Câu: 2 câu tiếp
- Sự đe dọa nơi “rừng thiêng, nước độc"
1. 14 câu thơ đầu: Hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền + Thác gầm thét => Thiên nhiên rất dữ dội, hung bạo
với thiên nhiên miền Tây và những chặng: + Cọp trêu người => Sự đe dọa của thú dữ
=> Biện pháp tu từ nhân hóa => Sự nguy hiểm nơi rừng núi Tây
Kiến thức khái quát: Bắc mà trực tiếp những người lính Tây Tiến phải đối mặt.
Câu: 2 câu đầu Câu: 2 câu cuối
- Mở đầu bài thơ bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến. - Kéo lại sự cân bằng cho người đọc với những hình ảnh thật
- Các hình ảnh xuất hiện trong câu thơ: mềm mại, nhẹ nhàng
+ Hình ảnh dòng sông Mã - Con sông gắn với chặng đường hành
+ “Nhớ ôi Tây Tiến”: Trực tiếp thể hiện cảm xúc - Nỗi nhớ:
quân, gắn với những kỷ niệm của binh đoàn Tây Tiến
+ Hình ảnh binh đoàn Tây Tiến - Nỗi nhớ trực tiếp hướng tới Nhớ về những bản làng trong khói bếp ban chiều.
binh đoàn Tây Tiến => Một hình ảnh rất đẹp, rất bình yên, rất tình (tình cảm của
=> Nhận ra tất cả đã “xa rồi", chỉ còn trong kỷ niệm. Từ “xa rồi” người chiến sĩ với đồng bào).
là điểm rơi thấp nhất của câu thơ, gợi ra một khoảng hụt hẫng. + Mai Châu: Địa danh với tên gọi gợi ra sự thanh thoát,
- Nỗi nhớ được đề cập đến: “nhớ về rừng núi" - nhớ thiên nhẹ nhàng đi kèm với hình ảnh “thơm nếp xôi" tạo ra
nhiên Tây Bắc.
những dư vị cảm xúc bình yên trong tâm hồn người đọc.
- “Nhớ chơi vơi" - Nỗi nhớ thật đặc biệt có thể hiểu theo ý
nghĩa: + “Mùa em” - Mùa của sự đủ đầy, “mùa con ong đi lấy mật,
+ Đang đứng giữa lưng chừng nỗi nhớ, một nỗi nhớ con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm
da diết, mênh mang nương” mùa ta gặp nhau, mùa trao yêu thương, vương
+ Nỗi nhớ quá rộng không biết đi về nẻo nào của luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi không quên.
nỗi nhớ thương => Một mùa thật lạ, thật đẹp, thật tình.
- Gieo vần “ơi” - âm mở, tạo ra dư ba cho câu thơ. Nhận xét:
Câu: 2 câu tiếp
Hình ảnh người lính Tây Tiến trên những chặng đường hành
- Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn là mốc không gian địa
gian khổ đã được Quang Dũng tái hiện trên phông nền của
lý nay trở thành mốc thời gian lịch sử, in dấu những kỷ niệm của
thiên nhiên miền Tây: hiểm nguy, dữ dội, gập ghềnh nhưng
một thời chiến binh.
cũng có những khung cảnh trữ tình, lãng mạn, bình yên.
- Hình ảnh người lính Tây Tiến:
Thiên nhiên không làm con người trở nên nhỏ bé, thiên nhiên
+ Sài Khao: Hình ảnh đoàn binh mỏi mệt đi giữa một biển
tôn vinh con người và khiến con người trở nên đẹp hơn bao
sương mờ phủ lấp
giờ hết.
+ Mường Lát: Xóa tan đi sự mệt mỏi, cân bằng lại với
hương thơm của hoa rừng nở về đêm.
+ Dùng từ ngữ rất tinh tế: “hoa về”, “đêm hơi”
Câu: 4 câu tiếp
- Đặc tả sự dữ dội và bình yên của thiên nhiên Tây Bắc
+ Dốc: khúc khuỷu, thăm thẳm => Từ láy: Địa hình gập ghềnh,
hiểm trở, gấp gãy => Khó đi; “Đèo cao, dốc đứng".
+ Đặc tả độ cao: Cồn mây heo hút - Hình ảnh: những người
lính Tây Tiến đang hành quân qua những đồi núi chập chùng,
núi cao tới nỗi súng có thể chạm vào mây.
+ Hình ảnh “súng ngửi trời": sử dụng BPTT nhân hóa với
mục đích:
Phân tích chi tiết: kỷ niệm trong bao chặng được hành quân vất vả. Và ở câu thơ
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời tiếp theo này, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương
chiến binh, ta chợt nhận ra, “Tây Tiến” được bắt đầu bằng 1 lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình
tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến như thế: ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song
Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả
sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những
nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha Tây tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi khiến cho toàn bộ cảnh thực
Tiến ơi! – Đó cũng chính là cách mà Quang Dũng mở đầu bài chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trung, tâm trí người
thơ của mình. Cảm xúc hiện hình trong nỗi nhớ chơi vơi. Đó vừa đọc. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc
là trạng thái của nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật được trở về với sự cân bằng. Không gian được liên tưởng tới là
nhớ. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương
mà đồng hiện trong nỗi nhớ chơi vơi ấy. Nỗi nhớ trở thành cội đêm, hoa nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước chân giữa
nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi phẩm. đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức
Mạch bài thơ là mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những mạnh. Quang Dũng quả thực dùng từ rất tinh tế. Là hoa về chứ
sực nhớ miên man, những vụt hiện bất chợt... Cũng từ đây nỗi không phải hoa nở, là đêm hơi chứ không phải đêm sương, cách
nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến đâu muôn dùng từ này khiến người đọc cảm thấy được sự nhẹ nhõm
vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ của không gian. Bao nhiêu mỏi mệt từ đó mà tan biến. Cũng với
mà những hình ảnh của những ngày qua cồn cào sống dậy. hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống
Chính nỗi nhớ chơi vơi đã dẫn ngòi bút tác giả đi miên man Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:
trong thế giới thơ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể “Những đường Việt Bắc của ta,
nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, Đêm đêm rầm rập như là đất rung
hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng gọi hối Quân đi điệp điệp trùng trùng
thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
âm vang của cả thời đại, của cả dân tộc trong những năm đầu Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành
của cuộc kháng chiến chống Pháp. của người lính ra trận. Còn trong thơ Quang Dũng, bối cảnh
Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh
sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động gắn với sóng đôi của sự trái ngược:
1 đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây Tiến “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
cũng đã xa rồi, tất cả chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có thể Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
thấy từ “xa rồi” cũng chính là điểm rơi thấp nhất của câu thơ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
này, nó giống như 1 khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm chỉ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của 1 bài thơ tứ tuyệt, đặc tả
xúc đong đầy. bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong
không gian nhiều chiều. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập
Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên ghềnh cũng được vẽ ra 1 cách chân thực ở đoạn thơ này. Ta như
Tây Bắc, về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Giữa nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao
khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc
diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho khuỷu dốc thăm thẳm". Những con dốc là hình ảnh đầu tiên
phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi được đề cập tới. Những con dốc được miêu tả bằng từ láy tượng
vơi”. Chỉ với 2 câu thơ đầu tiên, những ký ức gắn với binh đoàn hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng
đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành liên tưởng tới địa hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên
quay về với những ký ức, nhà thơ Quang Dũng thêm 1 lần đi lại tiếp nối nhau, con đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa
những con đường đã qua. Dọc theo khúc độc hành của nỗi nhớ nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ 2 miêu tả độ cao
thương, thi nhân tìm về những miền đất gắn với kỷ niệm một đời của những ngọn núi nơi đây:
chiến binh: Heo hút cồn mây súng ngửi trời
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với
Mường Lát hoa về trong đêm hơi” những khoảnh khắc tinh nghịch, dí dỏm, đậm chất lính. Đường
Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha trìu mến ấy, mạch chảy hành quân dài thăm thẳm muôn trùng, có khoảnh khắc đi lên
dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan tỏa như mỗi chuỗi cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là
kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Hai nguyên cớ có hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”.
địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian
địa lý in đẫm kỷ niệm của một thời chiến binh, nay trở thành
mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những
Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng
chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình “Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần
ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này chứng tỏ thác dữ, thú rừng không
hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng. Nó rất giống với phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào
liên tưởng trong thơ của Chính Hữu: cũng như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người
“Đêm nay rừng hoang sương muối lính trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt
Đầu súng trăng treo” hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn
Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét tinh nghịch của anh nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về
bộ đội cụ Hồ chính là điểm nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng Mai Châu xinh đẹp:
lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
câu thơ tiếp theo: Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người những bữa ăn của đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để
lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn thấy vương vấn đâu đây nếp
chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Trong bài
với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:
"ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", khiến người đọc dường Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
như đang chơi 1 trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao vời Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của 2 vế Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
tiểu đối sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.
núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn 1 địa danh
đe dọa bởi địa hình hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của có tên nghe thật mềm mại, êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu”
con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông: nếu như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng “Lai
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần. Đặc
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ biệt lưu ý, ở trong câu thơ cuối có 1 danh từ nghe rất lạ, đó là
nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo “mùa em”. Đất trời có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong
cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những chặng những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng lại có 1 mùa thật lạ đó
đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút là mùa em. Mùa em là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi
được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy, người chiến binh Tây xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta
Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình hay không? gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi
sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính đủ đầy.
dẫn chặng đường hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, Khái quát:
sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong
không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt
trong những vần thơ của mình: những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau,
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến.
Nhà thơ nói về " anh bạn " là nói về những đồng chí, đồng đội Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những
của mình, ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm
tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ "gục" có phần nặng và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và
nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình ảnh nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh
"bỏ quên đời". Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những
nhàng và thanh thản. Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng trai Hà Nội. Có người
và con người tạo nên 1 sự đối chiếu thầm lặng để rồi từ đó tôn nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên
vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé trước bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp
thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của
phía, mọi nơi. nhân dân ta.
Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người
lính còn bị đe dọa bởi thác
dữ, thú rừng:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
2. 8 câu thơ tiếp: Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa Phân tích chi tiết:
trại và buổi chiều sông nước Tây Bắc mênh mang, mờ ảo: 4 câu đầu: Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại ấm
áp tình quân dân
Kiến thức khái quát:
Câu: 4 câu đầu Khi nỗi nhớ đã thành vần thành điệu, khoảng cách để trở về bắt
Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại. lấy những ký ức đẹp đẽ chỉ cần một thoáng chốc. Và cứ thế,
- Doanh trại: Nơi sinh hoạt và chiến đấu của những người lính trong suốt dọc chặng đường tìm về muôn nẻo nỗi nhớ, niềm
- Từ “bừng” - nhãn tự của câu thơ, khiến người đọc liên tưởng thương của một thời chiến binh gian khổ, Quang Dũng đưa
tới một nguồn sáng bất ngờ, đột ngột. người đọc trở về với đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại thấm
- Cụm từ “hội đuốc hoa” gợi ra không khí của lễ hội đẫm tình người, tình đời:
- Tiếng reo vui “kìa em” thể hiện niềm vui, sự bất ngờ khi nhìn “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
thấy những cô gái dân tộc xúng xính trong bộ xiêm ý lộng lẫy. Hình ảnh tiếp theo được gợi nhắc trong những vần thơ là “doanh
- Đêm liên hoan văn nghệ trong tiếng nhạc dập dìu - âm thanh trại” - nơi chiến đấu, sinh hoạt gắn bó với biết bao kỷ niệm tươi
của tiếng kèn. đẹp của một thời chiến binh. Đêm ấy, sau những chặng đường
- Có những vũ điệu của quân và dân hành quân gian lao, vất vả, buổi liên hoan văn nghệ cùng đồng
- Ánh sáng, âm nhạc, tình người đã đưa tâm hồn người lính trở bào Tây Bắc đã diễn ra trong niềm vui hân hoan, háo hức. Từ
về miền đất lạ và xây nên những hồn thơ “bừng” giống như nhãn tự của câu thơ này bởi chỉ với một từ
Câu: 4 câu tiếp duy nhất cả không gian núi rừng Tây Bắc đen tối, âm u nay tràn
Buổi chiều sông nước Tây Bắc mênh mang, mờ ảo ngập ảnh sáng ấm áp của ngọn lửa, xua đi giá lạnh, xua đi những
- Không gian: sông nước Châu Mộc mệt nhọc vất vả hiểm nguy nơi chiến trường vừa qua. Chỉ một từ
- Thời gian: Chiều sương ngữ xuất hiện, mở ra một không gian ánh sáng cho cả câu thơ.
- Người đi: Chiến binh Tây Tiến Ánh sáng ấy được bắt nguồn từ những ngọn lửa, theo cách “lãng
- Người ở lại: đồng bào Tây Bắc
mạn anh hùng” nhà thơ gọi đó là “đuốc hoa” – hình ảnh của
- Câu hỏi tu từ: có thấy, có nhớ thiên nhiên nơi đây và
con người nơi đây hay không? những ngọn đèn xuất hiện trong những lễ hội trang trọng. Phải
- Hình ảnh đối lập “dòng nước lũ - hoa đong đưa”: chăng, không khí của đêm liên hoan văn nghệ này cũng chính là
Hình ảnh cánh hoa trôi trên dòng nước lũ thật thơ mộng, sự rạo rực, tưng bừng, tươi vui, hân hoan như những ngày lễ hội
thể hiện góc nhìn lãng mạn của người chiến binh thủa ấy. của nhân dân miền núi cao Tây Bắc.
Nhận xét: Cả doanh trại bừng sáng bởi ánh lửa bập bùng, Quang Dũng viết
Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách tiếp những dòng thơ:
dùng điệp từ và câu hỏi tu từ khéo léo đã quyện hoà với nỗi “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ Điểm nhìn thay đổi, không gian rộng lớn của núi rừng hay ánh
về đồng đội, đồng bào và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả sáng bập bùng của những ngọn lửa giờ đã chuyển sang hình ảnh
tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm hồn một người chiến sĩ của những cô gái dân tộc xúng xính trong xiêm y lộng lẫy.
thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. “Kìa em” - cụm từ này được sử dụng thật giống với một tiếng
reo vui bởi sự xuất hiện đột ngột, bất ngờ của những người con
gái đó. Họ ngạc nhiên và có đôi chút ngơ ngác bởi trong đôi mắt
của những chàng trai Hà Nội lúc bấy giờ là hình ảnh của những
cô gái Thái, cô gái Lào xinh đẹp, giàu sức sống, họ mang theo
bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình cùng với đó là
những tình cảm quân dân thật đáng trân trọng dành cho những
người cách mạng.
Không gian núi rừng đang say theo tiếng nhạc, những bom đạn
của chiến tranh vốn dĩ chẳng thể giết chết tâm hồn của những
chàng trai Hà Nội lãng mạn, tài hoa. Họ yêu nước, yêu đời,
yêu người và luôn giữ cho mình một điều rất riêng biệt đó là
chất thơ:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đêm liên hoan văn nghệ có ánh sáng, có âm thanh của tiếng
khèn - nhạc cụ đặc trưng của những dân tộc miền núi cao Tây
Bắc thêm vào đó còn là những vũ điệu của tình người, tình quân
dân. Tình cảm đẹp đẽ ấy, có phải đôi lần hay là rất nhiều lần ta
đã gặp trong thơ:
chăng? Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung
linh huyền hoặc: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và
“Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm “hoa đong đưa”. Cảnh vật hiện lên qua nét vẽ của Quang Dũng dù rất
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi, rất thơ, rất thi sĩ, rất đậm
chất lãng mạn của người lính Hà thành:
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm” Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về
Để rồi: biết bao kỷ niệm của một thời đã xa. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm lau tưởng như vô tri vô giác cũng mang hồn. Cách nhân hoá có thần đã
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ mộng hơn. Thiên nhiên mang
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay bởi nơi đây còn
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận tinh
(Hơi ấm ổ rơm - Nguyễn Duy) tế hoà quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm
chứa chan xúc cảm. Trong thơ, “hồn lau” dường như luôn mang một
Hay trong một vần thơ khác:
tâm tình, một suy ngẫm, một nỗi buồn man mác nhớ thương:
“Các anh về mái ấm nhà vui
“Ngàn lau cười trong nắng
Tiếng hát câu cười Hồn của mùa thu về
Rộn ràng xóm nhỏ Hồn mùa thu sắp đi
Các anh về tưng bừng trước ngõ Ngàn lau xao xác trắng”
Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau (Lau mùa thu- Chế Lan Viên)
Mẹ già bịn rịn áo nâu Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.” ức của Quang Dũng . “trên độc mộc”- chiếc thuyền làm bằng cây gỗ
(Bộ đội về làng - Hoàng Trung Thông) lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa
Và ở trong những vần thơ của Quang Dũng vẫn là thứ tình cảm khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc trưng của miền Tây.
Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con
quân dân chứa chan đến vậy. Để rồi men say của đất trời, men
người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian
say của tình đời tình người đã đưa tâm hồn của những chiến binh
khổ mà hào hùng? “dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người
Tây Tiến một thủa đến những miền đất lạ để xây lên những hồn Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt
thơ. Tạm thời rũ bỏ những mệt nhọc, căng thẳng của chiến với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào,
trường bom đạn, giây phút ấy tuy ngắn ngủi nhưng những niềm dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí
vui hiếm hoi này đã trở thành động lực lớn lao tiếp bước cho nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo
những ngày tháng gian khổ sau này để thêm quyết tâm chiến đấu léo. “Dáng người” ấy hình như cứ trở đi trở lại giữa những vần thơ
và chiến thắng mọi kẻ thù. Đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa được Quang Dũng gửi tình, như ta đã gặp:
trại đã giúp cho mỗi bạn đọc thấy được chất thi sĩ trong tâm hồn “Bến vắng chiều xuân hoa gạo rơi
những người chiến sĩ. Và đối với cá nhân Quang Dũng, đó là Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi
những kỷ niệm rất đẹp ông không thể nào quên đi. Đò ngang một chuyến qua mưa bụi
Nhớ mãi người đi... bóng dáng người”
4 câu tiếp: Kỷ niệm về một buổi chia tay trong chiều sương Và đây:
Châu Mộc “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Trong hồi ức của Quang Dũng, Tây Bắc không chỉ là miền đất Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết “đắt” nhất mà
của tranh đấu bảo vệ Tổ quốc, mà còn là nơi hiện hữu của thiên Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa
dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà
nhiên thơ mộng trữ tình. Trong những trang thơ thi phẩm Tây
Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi,
Tiến, chiều sương trên cao nguyên Châu Mộc được tác giả khắc
ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước
họa đầy tài hoa, có sắc màu điểm tô, có đường nét tinh tế: lũ” là hình ảnh đối lập không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá
Có nhớ dáng người trên độc mộc hào hoa, quá lãng mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” cái nhìn đa tình đến như thế?
Đoạn thơ trên diễn tả cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong hoài niệm Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét
của Quang Dũng, được khơi nguồn từ hai câu thơ đầu, như tiếng vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi
gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông.
gọi âm vang từ miền ký ức xa vắng:
Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương Châu
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Mộc một cách tự nhiên đến như vậy!
Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều
sương ấy”- khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường
như đã khắc sâu thành nỗi nhớ niềm thương trong tâm trí nhà
thơ. Đó có thể là khi đoàn quân chia tay một bản làng Tây Bắc
3. Hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa lãng - “về đất”: nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng
mạn và bi tráng: là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê
hương đất nước.
Kiến thức khái quát:
Câu: 2 câu đầu - “rải rác”: số lượng ít ỏi, không tập trung trên một khu vực mà
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc là rừng sâu biên giới ít có người qua lại, không có điều kiện
Quân xanh màu lá dữ oai hùm” hương khói.
- “Đoàn binh”: lực lượng đông đảo, đội quân mạnh - “chẳng tiếc đời xanh”: cách nói ngang tàng, ngạo nghễ và đầy
=> khí thế, như một cách nói đầy hiên ngang và tự tin. tự tin, hiên ngang, không ngại ngần hy sinh, gian khó.
- “Không mọc tóc”, “xanh màu lá”: để ngụy trang hay do hoàn - “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự nghiêng mình tiễn đưa
cảnh sống khắc nghiệt đầy thành kính với các anh trong khúc hùng ca sông Mã.
=> hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, => Người lính ra đi không hẹn ngày về, hy sinh cả tuổi trẻ cả
vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của thanh xuân.
mình. => Không trốn tránh hiện thực, tác giả đã khắc họa sự hi sinh
- “dữ oai hùm”: tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây
chiến đấu phía trước. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một xúc động lòng người, lay động thiên nhiên.
hiện thực nhiều gian khổ. Nhận xét:
=> Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp: hào hùng,
đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Đó là những con người bình
chiến trường. Tác giả không hề né tránh hiện thực, và điều đó thường nhưng phi thường, vượt lên gian khổ, hiểm nguy, sẵn
thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc càng thêm mãnh liệt sàng hy sinh cho sứ mệnh giành lại độc lập, tự do cho Tổ
nơi những người lính Tây Tiến. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả quốc. Tinh thần ấy, những con người nhỏ bé ấy đã làm lên
chất kiêu hùng: đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất (xanh xao 1 dân tộc anh hùng.
tiều tụy) là sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàn, lẫm liệt
(“dữ oai hùm”). Qua đó ta thấy được khí thế và quyết tâm của
người lính Tây Tiến.
Câu: 2 câu đầu
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
- “Mắt trừng” là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác.
- “Gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng lập công, giấc mộng
chiến thắng và sớm ngày giành được chiến thắng trước quân thù.
- Mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”: người chiến sĩ Tây Tiến
phần lớn là thanh niên trí thức xuất thân từ thủ đô, ra đi theo
tiếng gọi của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy mà
là động lực để họ vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ
=> tâm hồn lãng mạn của người lính trẻ.
=> Nhịp thơ thiết tha hơn, nối dài lý tưởng hào hùng nhưng cũng
rất đỗi hào hoa của những người lính, những sinh viên tuổi đời
còn rất trẻ đã quyết tâm gánh lấy “mối nợ” với non sông.
Câu: 4 câu tiếp
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
- Sử dụng hầu hết từ Hán Việt tăng sự trang trọng cho câu thơ và
giảm bớt sự bi thương trước bao mất mát, hy sinh của người
lính Tây Tiến.
+ “biên cương”: nơi xa xôi, hoang vu, tạo cảm giác tiếc thương,
không khí như chùng xuống, xót xa.
+ “mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng
hoang lạnh.
+ “áo bào”: Chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến
tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc
thi thể người lính đã hi sinh.
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Phân tích chi tiết: Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”
2 câu đầu: Bức chân dung tự họa độc đáo, lạ thường của người lính (“Bài ca chim Chơrao” - Thu Bồn)
Tây Tiến với những chi tiết tả thực sống động, hào hùng: Quả thực ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời
Chiến tranh đã qua đi, tấm áo hòa bình ấp ôm mảnh đất hình chữ S đã tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng. Và gửi theo ánh
được nhiều thập kỉ, đã hàn gắn được phần nào bao vết thương đớn đau, mắt của quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu, giấc
bao mất mát hy sinh của một thời lửa đạn. Nhưng ngày hôm nay, trong mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi
nền hòa bình này, ta đọc lại “Tây Tiến” để một lần nữa nhớ về thế hệ đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận,
các anh, những người lính trẻ trung và dũng cảm, trong mạch nguồn sẵn sàng gánh trên vai “món nợ” núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi
nỗi nhớ khi xưa mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều
của nhà thơ Quang Dũng. Bức tượng đài bằng thơ về các anh vẫn luôn tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh khi
sừng sững, sống mãi hững vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ: cảnh giác trước quân địch, khi cũng ấp ôm nỗi nhớ niềm thương về thị
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc thành quê hương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về Hà Nội
Quân xanh màu lá dữ oai hùm” với “dáng kiều thơm”, với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên
Nhà thơ dùng từ “đoàn binh” để khẳng định một lực lượng đông đảo, dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta
“đoàn binh” Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ với xuất thân chủ yếu là
ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, thanh niên trí thức thủ đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy, tầm thường mà là động lực để họ
ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ. Không những vậy
lính đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Ấy là sự ngụy trang đề “dáng kiều thơm” ấy còn một lần nữa đem đến màu sắc hiện thực cho
phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, câu thơ, Quang Dũng đã đem những gì thật chất, đúng nhất về người
của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi lính Tây Tiến lên những trang thơ của mình. Ta cảm nhận và trân trọng
chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn ấy.
sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối 4 câu cuối: Lý tưởng cao đẹp, vẻ đẹp bi tráng, coi cái chết nhẹ tựa
tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ lông hồng, sự hy sinh cao cả của người lính Tây Tiến:
như thế: Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta vào nơi biên cương hẻo lánh rải
“Cuộc đời gió bụi pha xương máu rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng
Đói rét bao lần xé thịt da câu chữ cho thấy sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh của cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa: “Rải rác biên cương mồ viễn
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!” xứ”. Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy
(“Lên Cấm Sơn” - Thôi Hữu) máu và mộ phần để tiếp ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà
Nhưng ở đây, giọng thơ “Tây Tiến” lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, không hề nao núng. Chính vì thế, Quang Dũng sử dụng một loạt những
viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang
hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm:“dữ oai hùm”. Nét hào trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận
hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý
những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, vui tưởng của một thời đại mới “chẳng tiếc đời xanh” – “Quyết tử cho Tổ
tươi hóa của Quang Dũng về quốc quyết sinh”. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa
những người đồng đội của mình. “Dữ oai hùm” là hình ảnh khẳng định những sự vật: “chiến trường” - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề,
tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh “đời xanh” – là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay
tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ,
người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: “Chiến trường đi chẳng tiếc
rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng đời xanh”. Bên cạnh sự hào hùng là bi tráng. Với Quang Dũng, chết
thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu”,
Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của
cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu “không mọc tóc”, da người lính, “anh về đất” biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau
“xanh màu lá” với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi
sức mạnh “dữ oai hùm”, Quang Dũng đã đem đến những nét phác họa nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hy sinh của các anh luôn
đầu tiên về người lính Tây Tiến rất hào hùng, dũng cảm và lạc quan. là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ,
2 câu tiếp: Tâm hồn hào hoa và lãng mạn của những chàng trai Hà âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng trọng:
Thành: “Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến những hình Trọn đời làm chiến sĩ vô danh” (Thu Bồn)
ảnh chân thực, không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng Trở lại với những vần thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng không trốn tránh hiện
mạn của các anh: thực mà đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và “Sông
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Mã” được nâng tầm như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội
Là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt “trừng” của người lính Tây ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến:
Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm cuối cùng ấy là khúc tráng
ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù: ca, là khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về với
cha ông, về với đất mẹ. Vẻ đẹp bi tráng về những người lính Tây Tiến từ đó
“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ
mà cứ vang vọng mãi trong tâm khảm bạn đọc.
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
4. 4 câu thơ cuối: Khúc vĩ thanh:
2. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, 9. Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình.
nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ.
đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng
được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng
ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. khiếu về hình tượng như thế nữa; không còn suối nguồn ở
(Chế Lan Viên – “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”) bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc
của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra
3. Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh
(Xuân Diệu – “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”) nói một cách rất hay về thơ.
(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975,
4. Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy Pierre Emmanuel)
chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng
ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự. 10. Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra
(Xuân Diệu - “Tố Hữu với chúng tôi”) cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi,
nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ
5. Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới
lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho
hoạt động của Tố Hữu. người lao khổ.
Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí (Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)
cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng.
Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta
đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ.
(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc
Việt Nam xuất bản, 1946)
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: => Hai câu hỏi tu từ với hình thức điệp từ ngữ cấu trúc, vận dụng
tinh tế và sáng tạo văn học dân tộc, 4 câu thơ thể hiện ân tình sâu
nặng của đồng bào Việt Bắc với người kháng chiến.
b) 4 câu thơ tiếp: Lời đáp lại của người ra đi - Tiếng lòng
của người ra đi
- Tiếng ai - Đại từ phiếm “ai” . “Ai” là người ở lại nhưng mang tính
chất phiếm chỉ, không rõ ràng, không phải những người cụ thể. Đó
là tiếng ai đó, hay tiếng núi rừng, tiếng suối sông Việt Bắc hay tiếng
lòng chưa cất thành lời. Tình tri kỷ khiến người đi thấu hiểu nỗi
lòng tha thiết của người ở lại. Hay nỗi lòng tha thiết của người đi
gặp được sự đồng vọng của người ở thể hiện một tấm lòng thủy
chung .
- Câu thơ như một lời hồi đáp của người ra đi rằng chúng tôi đã
nghe thấy những điều gửi gắm của người của ở lại - đồng bào VB.
- Đảo từ: “Trong dạ bâng khuâng, bước đi bồn chồn”
+ “Bâng khuâng”: sự đan xen của nhiều cảm xúc, có vui, có buồn,
có lưu luyến nhớ nhung.
+ “Bồn chồn”: cảm giác nôn nao, phấp phòng không yên, không chỉ
1. 8 câu thơ đầu - Khúc hát chia ly giữa người đi kẻ ở: biểu hiện ở nội tâm mà còn hiện ra trong bước chân, gương mặt,
“Mình về mình có nhớ ta ánh mắt.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng => Nhấn mạnh vào mặt cảm xúc của người ra đi: Lòng đầy lưu
... luyến, bâng khuâng. Bước đi ngập ngừng cứ đi rồi lại dừng,
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” ngoái nhìn cảnh vật và con người nơi đây. => Vừa vui, vừa buồn;
Hình thức đối đáp quen thuộc trong ca dao: vừa tiếc nuối, vừa hào hứng,...
- Có người ra đi và người ở lại ( mình - ta ), tuy nhiên đối đáp chỉ là - “Áo chàm” => Hoán dụ. Trong giây phút chia ly, nếu “tiếng ai” là
hình thức bên ngoài còn thực chất bên trong là lời độc thoại , tự âm thanh mơ hồ, là tiếng lòng người ở lại vang lên nhờ sự đồng
biểu hiện cái Tôi trữ tình của tác giả. Cho nên dù là lời của người ra cảm của người đi thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại hiện lên cụ thể
đi hay lời của người ở lại đó vẫn là tiếng lòng chung của con người đến não lòng...
kháng chiến. +Áo chàm là biểu tượng đơn xơ xúc động, hình ảnh trang phục
=> Nghệ thuật phân thân của chủ thể trữ tình khiến cảm xúc trong quen thuộc của đồng bào VB.
cuộc chia tay càng thêm sâu sắc, mãnh liệt, lưu luyến. + Màu chàm: màu thể hiện cho sự giản dị, mộc mạc, bền bỉ,
a) 4 câu đầu: Lời của người ở lại chịu thương chịu khó, màu của nghĩa tình.
- Câu hỏi tu từ: Người ở lại - Đồng bào VB - hỏi người ra đi: khi về => Đồng bào Việt Bắc, tô đậm những vẻ đẹp phẩm chất của
với Hà Nội rồi liệu còn nhớ nơi đây nữa hay không? người ở lại.
- “Ấy” - cá nhân hóa khoảng thời gian 15 năm - khoảng => Hình ảnh đồng bào VB trong buổi chia tay cán bộ cách mạng
thời gian đong đầy kỷ niệm của đồng bào Việt Bắc và cán bộ CM. về xuôi.
Đại từ “ấy” khiến những danh từ chỉ thời gian trước nó bị đẩy về - Hình ảnh: “cầm tay”- cái nắm tay giữa cán bộ CM và đồng bào
quá khứ xa xăm, thành thời gian của nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, VB.
tiếc nuối - Họ ngậm ngùi không nói được tiếng nào - không cất lên
- “Thiết tha, mặn nồng" => để diễn tả tình cảm gắn bó, bền chặt của thành lời:
cán bộ CM và đồng bào VB trong 15 năm qua. Đây vốn dĩ là những + Quá xúc động nên cổ họng nghẹn lại, không cất được thành lời.
từ ngữ chỉ dùng khi nói về tình cảm của đôi lứa, uyên ương nhưng + Quá nhiều điều nói, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu.
lại được Tố Hữu đưa vào đây thật phù hợp, thật đẹp, thật tình. Tình Khái quát:
cảm giữa cán bộ CM và đồng bào Việt Bắc keo sơn, bền chặt. Khúc hát chia ly giữa người đi kẻ ở, thể hiện tình cảm gắn bó
- Câu hỏi tu từ: Nhắc nhớ về những năm tháng đã trôi qua. mặn nồng giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ Cách mạng.
Câu hỏi này khiến cho con người trăn trở suy ngẫm vì sự tha
Được coi là khúc nhạc dạo đầu của bài thơ Việt Bắc, gợi bao
thiết nghiêm nghị trong giọng thơ. Câu hỏi hướng về không gian
nghĩa tình yêu thương gắn bó.
chia thành hai miền: xuôi - ngược, gợi sự quấn quýt gắn bó ta -
mình, thể hiện nỗi nhớ người ở lại nhưng đồng thời cũng là lời chất
vấn của người trở về thủ đô phồn hoa đô thị. Liệu người ra đi có
nhớ về Việt Bắc, về cội nguồn và quá khứ. Câu thơ gợi ra suy ngẫm
về nghĩa tình, đạo lý, về cội nguồn thủy chung. Liệu người ra đi còn
nhớ về Việt Bắc, cội nguồn, nhớ quá khứ hay không ?
- Cây - núi: Nhớ về thiên nhiên VB
- Sông - nguồn: Cội nguồn của nghĩa tình.
Phân tích chi tiết: Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều - Mười lăm năm bằng
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được ký thời gian Kim - Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về
kết, tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng nhau (Những là rày ước mai ao - Mười lăm năm ấy biết bao
và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự nhiêu tình). Khác với Nguyễn Du, quãng thời gian 15 năm đó
kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt là khoảng thời gian sinh hoạt, chiến đấu cùng đồng bào VB;
Bắc, khắc họa lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng... Tính từ “thiết tha, mặn
thủy chung son sắt. Trong tám câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái nồng" diễn tả tình cảm gắn bó, bền chặt của cán bộ CM và
hiện không khí bâng khuâng, lưu luyến trong những phút giây đồng bào Việt Bắc trong 15 năm qua. Đây vốn dĩ là những từ
đầu tiên của buổi chia ly giữa kẻ ở - người đi. Khúc dạo đầu ngữ chỉ dùng khi nói về tình cảm của đôi lứa, uyên ương
được khơi gợi từ lời của những người ở lại: nhưng lại được Tố Hữu đưa vào đây thật phù hợp, thật đẹp,
“Mình về mình có nhớ ta thật tình. Tình cảm giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào Việt
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Bắc keo sơn, bền chặt.
Mình về mình có nhớ không Câu hỏi tu từ thêm nhắc nhớ về những năm tháng đã trôi qua.
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn Câu hỏi này khiến cho con người trăn trở suy ngẫm vì sự tha
Tiếng ai tha thiết bên cồn thiết nghiêm nghị trong giọng thơ. Câu hỏi hướng về không
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi gian chia thành hai miền: xuôi - ngược, gợi sự quấn quýt gắn
Áo chàm đưa buổi phân li bó ta - mình, thể hiện nỗi nhớ người ở lại nhưng đồng thời
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” cũng là lời chất vấn của người trở về thủ đô phồn hoa đô thị.
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén Liệu người ra đi có nhớ về Việt Bắc, về cội nguồn và quá
được, cứ trào ra theo ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng khứ. Câu thơ gợi ra suy ngẫm về nghĩa tình, đạo lý, về cội
thơ. Để bài thơ trở thành một khúc hát ân tình tha thiết, Tố nguồn thủy chung. Liệu người ra đi còn nhớ về Việt Bắc, cội
Hữu đã sáng tạo cách kết cấu rất phù hợp với nội dung tư nguồn, nhớ quá khứ hay không ? Việt Bắc đã hỏi người cán
tưởng, cảm xúc ấy: lời đối đáp trong một cuộc chia ly của kẻ bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình
ở người về. Có người ra đi và người ở lại (mình - ta), tuy cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười
nhiên đối đáp chỉ là hình thức bên ngoài còn thực chất bên lăm năm gắn bó? Nhìn cây còn có nhớ núi, nhìn sông còn có
trong là lời độc thoại , tự biểu hiện cái Tôi trữ tình của tác nhớ đến nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai câu hỏi
giả. Cho nên dù là lời của người ra đi hay lời của người ở lại tu từ. Tố Hữu hơn một lần vận dụng rất sáng tạo và nhuần
đó vẫn là tiếng lòng chung của con người kháng chiến. Nghệ nhuyễn văn học dân gian, làm nền tảng tạo nên giọng điệu
thuật phân thân của chủ thể trữ tình khiến cảm xúc trong cuộc tâm tình, tự nhiên, chân thành rất hiện đại, rất riêng của mình.
chia tay càng thêm sâu sắc, mãnh liệt, lưu luyến. Dân gian ta vẫn từng có câu nằm lòng:
“ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Bài thơ mở ra trong một cảnh chia tay với tâm trạng bâng “ Uống nước nhớ nguồn”
khuâng, bồn chồn, bịn rịn, lưu luyến của kẻ ở người đi - hai Việt Bắc đã chịu nhiều đau thương đã cùng gánh trên vai như
người từng gắn bó sâu nặng bền lâu qua mười lăm năm một Việt Nam thu nhỏ của cuộc kháng chiến cứu quốc. Vì
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Khung cảnh ấy gợi vậy dù có đi xa nhưng người ở lại vẫn nhẹ nhàng nói với
nhớ đến những cuộc hát đối đáp trong đêm giã bạn ở vùng người ở lại một ân tình Cách mạng mà nơi ấy “cây” là người
quê quan họ hay trong sinh hoạt dân ca ở nhiều vùng. Người ra đi, “núi” và “nguồn” là chiến khu miền núi.
ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để
gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn nghĩa tình: nói lên đạo lý Việt Nam truyền thống vốn là bản chất tốt đẹp
“Mình về mình có nhớ ta của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà chính là nhắc nhở mọi
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng người, nhắc nhở chính mình bởi vì đạo lí ấy thiêng liêng lắm,
Mình về mình có nhớ không quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy. Sâu nặng biết bao
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết
Câu hỏi tu từ có lẽ chăng chính là người ở lại - đồng bào VB bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu
hỏi người ra đi rằng khi về với Hà Nội rồi liệu còn nhớ nơi thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” hòa quyện
đây nữa hay không? Đại từ “Ấy” - cá nhân hóa khoảng thời quấn quýt cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam
gian 15 năm-khoảng thời gian đong đầy kỷ niệm của đồng đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành
bào Việt Bắc và cán bộ Cách mạng. Đại từ dường như khiến chủ đề lớn của tác phẩm. Hình thức đối đáp ở đây chỉ là một
những danh từ chỉ thời gian trước nó bị đẩy về quá khứ xa thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng, đồng
xăm, thành thời gian của nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc vọng trong tình cảm của người ở và người về.
nuối, gợi liên tưởng đến câu thơ trong “Truyện Kiều”:
“ Mười năm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Cuộc đối thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của
người ra đi - những cán bộ chiến sĩ cách mạng:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Tiếng ai - đại từ phiếm “ai”. “Ai” là người ở lại nhưng mang
tính chất phiếm chỉ, không rõ ràng, không phải những người
cụ thể. Đó là tiếng ai đó, hay tiếng núi rừng, tiếng suối sông
Việt Bắc hay tiếng lòng chưa cất thành lời. Tình tri kỷ khiến
người đi thấu hiểu nỗi lòng tha thiết của người ở lại. Hay nỗi
lòng tha thiết của người đi gặp được sự đồng vọng của người
ở thể hiện một tấm lòng thủy chung . Câu thơ như một lời hồi
đáp của người ra đi rằng chúng tôi đã nghe thấy những điều
gửi gắm của người của ở lại - đồng bào Việt Bắc. Nghệ thuật
đảo ngữ : “Trong dạ bâng khuâng, bước đi bồn chồn” thật
độc đáo. “Bâng khuâng” ở đây là sự đan xen của nhiều cảm
xúc, có vui, có buồn, có lưu luyến nhớ nhung. Còn “bồn
chồn” lại là cảm giác nôn nao, phấp phòng không yên, không
chỉ biểu hiện ở nội tâm mà còn hiện ra trong bước chân,
gương mặt, ánh mắt. Hai từ láy nhấn mạnh vào mặt cảm xúc
của người ra đi: Tấm lòng nặng trĩu những lưu luyến, bâng
khuâng. bước đi ngập ngừng cứ đi rồi lại dừng, ngoái nhìn
cảnh vật và con người nơi đây, tâm trạng vừa vui, vừa buồn;
vừa tiếc nuối, vừa hào hứng,...
Trong giây phút chia ly, nếu “tiếng ai” là âm thanh mơ hồ, là
tiếng lòng người ở lại vang lên nhờ sự đồng cảm của người đi
thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại hiện lên cụ thể đến não
lòng...Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” là biểu tượng đơn xơ xúc
động, hình ảnh trang phục quen thuộc của đồng bào VB. Màu
chàm là màu thể hiện cho sự giản dị, mộc mạc, bền bỉ, chịu
thương chịu khó, màu của nghĩa tình. Lần chia tay có ý nghĩa
lịch sử ấy được ghi lại với niềm xúc động sâu xa, họ cầm tay
nhau, vấn vương bịn rịn, mười lăm năm ấy đã là quá dài? Vì
thế cầm tay nhau không nói gì cũng chính là nói ra rất nhiều.
Hẳn vì thế mà khổ thơ thứ hai được xem như một lời đồng
vọng đầy thương mến. Cái nắm tay giữa cán bộ Cách mạng
và đồng bào Việt Bắc thể hiện sự ngậm ngùi không nói được
tiếng nào - không cất lên thành lời hay chăng vì quá xúc động
nên cổ họng nghẹn lại, không cất được thành lời hay quá
nhiều điều nói, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu. Câu thơ
gợi nhắc ta nhớ đến câu thơ của Lưu Quang Vũ cũng nói về
tâm trạng chia ly đầy nghẹn ngào xúc động:
“Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Lời chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.”
Như vậy, 8 câu thơ đầu là khúc hát chia ly giữa người đi kẻ
ở, thể hiện tình cảm gắn bó mặn nồng giữa đồng bào Việt
Bắc và cán bộ Cách mạng. Đây được coi là khúc nhạc dạo
đầu của bài thơ Việt Bắc, gợi bao nghĩa tình yêu thương
gắn bó.
2. 12 câu thơ tiếp - Những năm tháng chia ngọt sẻ bùi của ngôi nhà ấy là những tấm lòng son sắt đậm đà của những người
đồng bào Việt Bắc với cán bộ Cách mạng: ở lại.
Mình đi có nhớ những ngày => Đó là nghĩa tình thiết tha trìu mến của những con người nhỏ
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? bé đã góp một phần của mình vào chiến thắng Điện Biên năm ấy
... - Chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Mình đi, mình có nhớ mình - Câu hỏi tu từ gợi nhắc về núi rừng Việt Bắc với hình ảnh của
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? khu căn cứ địa kháng chiến với 2 sự kiện lịch sử: “Nhớ khi
- Câu hỏi tu từ, người Việt Bắc hỏi mình đi rồi có nhớ những kháng Nhật thuở còn Việt Minh”:
ngày mà ta với mình cũng trải qua tháng ngày sống chung với lũ, • Phong trào kháng Nhật những năm 40.
những ngày mưa lớn mây mù hay không. • Phong trào Việt Minh tạo ra mặt trận vũ trang góp phần làm
=> ý muốn nói tới hoàn cảnh thời tiết vô cùng khắc nghiệt. lên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và là tiền đề quan
=> Khơi gợi trong lòng người ra đi về những ngày gian khó. trọng cho những thắng lợi sau này.
Trong gian khó mới thấy được chân tình. Chân tình của đồng - Trong 1 câu thơ có 2 chữ mình: Chữ “mình” đầu ý nói những
bào, của nhân dân là sẵn sàng cùng với những người cán bộ cách người cán bộ Cách mạng; chữ “mình” thứ 2 chỉ đồng bào Việt
mạng trải qua mọi khó khăn, vất vả. Bắc. Thế nhưng cũng có thể hiểu cả 2 chữ mình này đã hòa làm
- Đó là những tháng ngày “giặc đến, giặc lùng”, để có thể bảo 1 giống như tâm hồn của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc đã
vệ tổ chức Cách mạng trong những tháng ngày đầu của cuộc hòa vào nhau. Kẻ đi, người ở đều có 1 tâm trạng bâng khuâng
kháng chiến, đồng bào Việt Bắc cùng cán bộ Cách mạng phải lui tiếc nuối như nhau.
vào rừng sâu cùng nhau trải qua những tháng ngày: “ăn tuyết - Những địa danh hình ảnh gắn với sự kiện quan trọng
nằm sương”, “nếm mật nằm gai”. Nơi đây “mưa nguồn suối của Cách mạng:
lũ” khắc nghiệt (Mưa dữ dội, suối nước chảy xiết) vô cùng nguy • Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22.12.1944
hiểm. đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội VN tuyên
- Những tháng ngày với sự thiếu thốn về vật chất: “miếng cơm truyền Giải phóng quân (Sau này là ngày Quân đội nhân dân
chấm muối” Việt Nam).
=> Những bữa ăn giản đơn, thiếu thốn nhưng vượt lên trên tất cả • Mái đình Hồng Thái: gợi nhắc những cuộc họp chiến lược
họ lại giữ cho mình sự kiên định, vững vàng vì họ hiểu rằng trên quan trọng. từng bước đi tới chiến thắng Cách mạng.
đôi vai của mình đang mang một mối thù lớn, mối thù của quốc
gia, dân tộc. Khái quát
=> Đó là quyết tâm của những người cán bộ cách mạng, nhưng Khẳng định Việt Bắc là cái nôi của Cách mạng, là trung tâm
cũng là quyết tâm của đồng bào Việt Bắc. Họ sẵn sàng quên đi đầu não của cuộc kháng chiến. Nơi đây không chỉ in dấu
cái riêng để hòa nhập vào cái chung, quên đi cái cá nhân để hòa những kỷ niệm đầy nghĩa tình nồng ấm, còn là nơi bắt đầu
nhập vào cộng đồng rộng lớn. cho dân tộc Việt Nam làm nên “thiên sử vàng” chói lọi. Để
- Câu hỏi tu từ gợi tình cảm của thiên nhiên với con người: làm được điều này, nhân dân Việt Bắc đóng một vai trò vô
“Rừng núi nhớ ai” cùng lớn lao.
=> Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để nói lên nỗi niềm bâng
khuâng da diết. Rừng núi ở đây cũng chính là hình ảnh hoán dụ
chỉ đồng bào Việt Bắc. Từ “ai” trong “nhớ ai” ý chỉ những
người cán bộ cách mạng. Là đại từ phiếm chỉ nhưng lại mang ý
nghĩa chỉ cụ thể.
- Câu thơ tiếp theo có 2 hình ảnh: “trám và măng” là lương thực
chủ yếu của bộ đội ta trong những ngày chiến đấu đầy gian khó.
Nay người đi rồi, trám và măng không còn người thu hái, để lại
ở đây là một khoảng hụt hẫng với nỗi nhớ mênh mang.
=> Thiên nhiên mang 1 nỗi buồn trống vắng vì người đi mất,
thiên nhiên nhưng cũng chính là cách để nói về tiếng lòng của
những người ở lại. Là tình cảm của nhân dân với cán bộ thiết
tha, trìu mến.
- Câu hỏi tu từ tiếp theo ý muốn gợi nhớ tới con người Việt Bắc:
- Hình ảnh hắt hiu lau xám muốn nói tới hình ảnh của những
ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc
=> Khung cảnh gợi ra sự hoang vắng, hiu hắt, cô liêu. Thế
nhưng tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập để chứng tỏ rằng bên
ngoài là hình ảnh đìu hiu nhưng bên trong khung cảnh ấy những
Phân tích chi tiết: chính là cách để nói về tiếng lòng của những người ở lại. Đó là tình
Sau những lời mở đầu, người ở lại tiếp tục gợi lại những kỷ niệm cảm của nhân dân với cán bộ thiết tha, trìu mến.
gắn bó đầy ân tình của “mười lăm năm ấy”. Cũng vẫn dưới dạng
câu hỏi nhưng đã gợi cụ thể hơn về thời gian, không gian của những Câu hỏi tu từ tiếp theo ý muốn gợi nhớ tới con người Việt Bắc. Với
kỷ niệm: hình ảnh “hắt hiu lau xám” nhà thơ muốn nói tới hình ảnh của
“ Mình đi có nhớ những ngày những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc. Khung cảnh gợi ra sự hoang
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? vắng, hiu hắt, cô liêu thế nhưng tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập
... để chứng tỏ rằng bên ngoài là hình ảnh đìu hiu nhưng bên trong
Mình đi, mình có nhớ mình khung cảnh ấy những ngôi nhà ấy là những tấm lòng son sắt đậm đà
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? ” của những người ở lại. Đó là nghĩa tình thiết tha trìu mến của những
con người nhỏ bé đã góp một phần của mình vào chiến thắng Điện
Là lời hỏi nên không miêu tả cụ thể mà chỉ dùng bút pháp gợi tả. Biên năm ấy - Chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Nhưng sau những câu thơ, những hình ảnh cô đúc là bao nhiêu kỷ
niệm, bao nhiêu nghĩa tình chất chứa dồn nén. Câu thơ lục bát ở đây Câu hỏi tu từ gợi nhắc về núi rừng Việt Bắc với hình ảnh của khu
đạt đến độ tinh luyện, đúc chữ, đúc hình ảnh, nhất là trong những căn cứ địa kháng chiến với 2 sự kiện lịch sử: “Nhớ khi kháng Nhật
câu sử dụng rất hiệu quả phép đối “Miếng cơm chấm muối, mối thù thuở còn Việt Minh” . Đó là những năm tháng của phong trào kháng
nặng vai”; “ Trám bùi để rụng, măng mai để già”; “ Hắt hiu lau Nhật những năm 40, Phong trào Việt Minh tạo ra mặt trận vũ trang
xám đậm đà lòng son”. góp phần làm lên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và là tiền
Lời hỏi của Việt Bắc - người ở lại - đã khơi dậy, làm tuôn trào cả đề quan trọng cho những thắng lợi sau này. Chính nghĩa tình của
một bầu kỷ niệm tràn đầy tình nghĩa người ra đi, với bao nhiêu hình đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm
ảnh, sự việc chất chứa của một thời không thể quên. Nếu lời hỏi chỉ cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng
nhằm khơi gợi, thì lời đáp lại dào dạt, dồn dập như một dòng cảm nề, khó khăn làm cho Việt Bắc - quê hương của Cách Mạng, cội
xúc tuôn trào. Bởi vậy lời hỏi chỉ có 12 câu thơ, mà lời đáp phải nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng - càng thêm ngời sáng trong tâm
dùng tới 70 câu (từ 21 đến 90). trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung. Trong 1
câu thơ có 2 chữ mình: Chữ “mình” đầu ý nói những người cán bộ
Câu hỏi tu từ, người Việt Bắc hỏi mình đi rồi có nhớ những ngày Cách mạng; chữ “mình” thứ 2 chỉ đồng bào Việt Bắc.
mà ta với mình cũng trải qua tháng ngày sống chung với lũ, những Thế nhưng cũng có thể hiểu cả 2 chữ mình này đã hòa làm 1 giống
ngày mưa lớn mây mù hay không ở đây ý muốn nói tới hoàn cảnh như tâm hồn của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc đã hòa vào
thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Câu hỏi khơi gợi trong lòng người ra nhau. Kẻ đi, người ở đều có 1 tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối như
đi về những ngày gian khó. Trong gian khó mới thấy được chân nhau. Những địa danh hình ảnh gắn với sự kiện quan trọng của
tình. Chân tình của đồng bào, của nhân dân là sẵn sàng cùng với Cách mạng được Tố Hữu gợi nhắc : Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự
những người cán bộ cách mạng trải qua mọi khó khăn, vất vả. Đó kiện lịch sử ngày 22.12.1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất
còn là những tháng ngày “giặc đến, giặc lùng”, để có thể bảo vệ tổ quân cho đội VN tuyên truyền Giải phóng quân (Sau này là ngày
chức Cách mạng trong những tháng ngày đầu của cuộc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam) và mái đình Hồng Thái. Những địa
đồng bào Việt Bắc cùng cán bộ Cách mạng phải lui vào rừng sâu danh gợi nhắc những cuộc họp chiến lược quan trọng. từng bước đi
cùng nhau trải qua những tháng ngày: “ăn tuyết nằm sương”, “nếm tới chiến thắng Cách mạng. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào
mật nằm gai”. Nơi đây “mưa nguồn suối lũ” khắc nghiệt (Mưa dữ trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời
dội, suối nước chảy xiết) vô cùng nguy hiểm. Là những tháng còn là lời nhắc nhở không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng
ngày với sự thiếu thốn về vật chất: “miếng cơm chấm muối”, VB chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách
những bữa ăn giản đơn, thiếu thốn nhưng vượt lên trên tất cả họ lại Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung,
giữ cho mình sự kiên định, vững vàng vì họ hiểu rằng trên đôi vai gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?
của mình đang mang một mối thù lớn, mối thù của quốc gia, dân
tộc. Đó là quyết tâm của những người cán bộ cách mạng, nhưng Như vậy, chỉ với mười hai câu thơ trong khổ 3 của bài VB, Tố Hữu
cũng là quyết tâm của đồng bào Việt Bắc. Họ sẵn sàng quên đi cái đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỷ niệm, vào một thế giới
riêng để hòa nhập vào cái chung, quên đi cái cá nhân để hòa nhập êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Bao trùm
vào cộng đồng rộng lớn. Câu hỏi tu từ gợi tình cảm của thiên nhiên trong tâm trạng của cả kẻ ở người đi là nỗi nhớ da diết, mênh mang
với con người: “Rừng núi nhớ ai” . Câu hỏi với biện pháp tu từ với nhiều sắc thái khác nhau. Niềm hoài niệm thiết tha đã làm sống
nhân hóa để nói lên nỗi niềm bâng khuâng da diết. “Rừng núi” ở dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình với thiên nhiên, con người
đây cũng chính là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc. Từ “ai” Việt Bắc, với cuộc sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng. Đoạn
trong “nhớ ai” ý chỉ những người cán bộ cách mạng, là đại thơ đã cho ta khẳng định Việt Bắc là cái nôi của Cách mạng, là
từ phiếm chỉ nhưng lại mang ý nghĩa chỉ cụ thể. trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Nơi đây không chỉ in dấu
những kỷ niệm đầy nghĩa tình nồng ấm, còn là nơi bắt đầu cho dân
Câu thơ tiếp theo có 2 hình ảnh: “trám và măng” là lương thực chủ tộc Việt Nam làm nên “thiên sử vàng” chói lọi. Để làm được điều
yếu của bộ đội ta trong những ngày chiến đấu đầy gian khó. Nay này, nhân dân Việt Bắc đóng một vai trò vô cùng lớn lao.
người đi rồi, trám và măng không còn người thu hái, để lại ở đây là
một khoảng hụt hẫng với nỗi nhớ mênh mang. Thiên nhiên mang
một nỗi buồn trống vắng vì người đi mất, thiên nhiên nhưng cũng
3. 22 câu thơ tiếp - Khẳng định lòng thuỷ chung tình nghĩa + Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng
và tái hiện lại vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc: chiều lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỷ
Ta với mình, mình với ta niệm: “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày.
.... Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng
Chày đêm nện cối đều đều suối xa... nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối
Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi
tình cảm thuỷ chung của mình: chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng
chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông
“Ta với mình, mình với ta
và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ
Mình đi mình lại nhớ mình
ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấm áp, vui tươi.
- Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả
Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ
lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình
vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền
có nhớ mình”...). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến
quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với
về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt
Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận
Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của
sâu sắc, thấm thía đến như thế:
người cán bộ kháng chiến.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
- “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hòa, ta với mình là
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng
(Chế Lan Viên)
định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc
Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra
là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.
đi ta cảm thấy trái tim cứ trào lên biết bao nỗi vấn vương thương
- Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã
nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:
khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra
vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận
không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian
nặng, như nghĩa mẹ tình cha. khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:
+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh “Ta đi ta nhớ những ngày
giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là Thương nhau chia củ sắn lùi
tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
người về trong giây phút ly biệt. - Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những
con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ
Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng: kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình
ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở
- Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa
đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương
dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã
máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả
từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người.
chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống
Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những
những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong
ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh
đại gia đình dân tộc Việt Nam.
bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:
- Đặc biệt, Tố Hữu không thể nào quên hình ảnh những người mẹ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Nhớ từng bản khói cùng sương
+ Hình ảnh những bà mẹ tần tảo, chịu thương chịu khó cõng con,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
cõng cả nắng trời cháy trên lưng trên rẫy bẻ từng bắp ngô, nuôi giấu
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
cán bộ cứ trở đi trở lại trong thi phẩm của nhà thơ.
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả
+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi
đối với những bà mẹ Việt Bắc. Mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm
nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là
nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên thơ ca Việt Nam
phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường
nhiều lần thổn thức bởi cái “lưng” của người mẹ.
như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào
Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh
và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.
Cuộc sống của đồng bào và những cán bộ chiến sĩ ở Việt 4. 10 câu tiếp - Bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con
Bắc đầy khó khăn gian khổ nhưng tinh thần lại rất lạc người Việt Bắc:
quan, yêu đời, gắn bó bên nhau. “Ta về mình có nhớ ta
Ta bắt gặp những hình ảnh, âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt Ta về ta nhớ những hoa cùng người
của người cán bộ và nhân dân Việt Bắc: ...
“Nhớ sao lớp học i tờ Nhớ ai tiếng hát ân tình, thủy chung.”
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan a) 2 câu đầu:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan - Mở đầu bằng 1 câu hỏi tu từ đầy bâng khuâng, xao xuyến:
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo • Cách xưng hô mình ta thường gặp trong ca dao gợi bao cảm xúc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Ta - cán bộ cách mạng - Những người ra đi; Mình ở đây chỉ những
Chày đêm nện cối đều đều suối xa” người ở lại - Đồng bào Việt Bắc.
- Đó là những lớp học “i tờ” nhằm xóa nạn mù chữ, mang ánh sáng • Điệp từ “ta” - điệp lại 4 lần cùng với cách gieo vần “a” tạo ra
văn hoá cho đồng bào Việt Bắc. một thanh âm mở khiến cho cảm xúc của người đọc trở nên
- Đó là những “đồng khuya đuốc sáng” để liên hoan mừng tin mênh mang, sâu lắng hơn.
thắng trận. - Nỗi nhớ được đề cập tới trong đoạn thơ:
- Người cán bộ các cơ quan ở chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến • Hoa: Biểu trưng cho thiên nhiên.
chống Pháp tuy sinh hoạt thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn “ca vang • Người: Hình ảnh con người Việt Bắc.
núi đèo”. Đó là tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào chiến • “Cùng” thể hiện sự hòa hợp - Mối quan hệ gắn bó, vẻ đẹp hòa
thắng ở tương lai. quyện giữa thiên nhiên và con người nơi đây.
- Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu khua vang => Lời khẳng định của những người ra đi - Cán bộ cách mạng về
trên đường về bản làng trong các buổi chiều, tiếng cối giã gạo bằng tình cảm của mình với đất và người Việt Bắc.
sức nước cứ vang lên đều đặn trong rừng mỗi khuya tạo thành một => 2 câu thơ thâu tóm cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ: đó là
bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Đó là những âm đoạn thơ viết về nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc.
thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, là loại nhạc cụ rừng mà người cán bộ b) 8 câu tiếp - Bức tranh tứ bình:
kháng chiến không thể nào quên. Tất cả làm nên một bài ca trong Mùa đông:
trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể - Thiên nhiên:
dập tắt được. • 10.1954 là thời điểm Tố Hữu viết bài VB, đây là thời điểm
mùa Đông ở MB chính bởi vậy đây là mùa đông của hiện tại – Có
một số ý kiến khác cho rằng Tố Hữu mở đầu bộ tranh tứ bình của
mình bẳng mùa Đông là bởi lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến
dịch Việt Bắc thu đông.
• Bức tranh mùa đông với màu xanh: xanh lá, xanh rừng, xanh trời
=> Màu của sức sống, của hy vọng.
• Điểm xuyết màu đỏ của những bông hoa chuối rừng như những
ngọn lửa thắp sáng cả không gian núi rừng Việt Bắc xua đi không
gian lạnh giá vốn có nơi rẻo cao.
=> Bức tranh sinh động, ấm áp, tươi mới, tràn đầy sức sống. Bức
tranh có hồn, ấm áp chứ không lạnh lẽo, cô liêu như những nhà
thơ khác từ trước cũng đã từng viết về mùa đông.
(Có thể liên hệ với đoạn thơ của nhà thơ Việt Phương:
“Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
Ai có về tôi gửi áo len cho.”)
- Con người:
• Để cho hình ảnh con người xuất hiện trong 1 nét thần tình rực
sáng nhất: đó là hình ảnh mặt trời chớp lóe trên lưỡi của con dao đi
rừng gài nơi thắt lưng.
=> Ngôn ngữ thơ nhưng cũng chính là ngôn ngữ của 1 nhà nhiếp
ảnh. Con người bây giờ như 1 điểm hội tụ của ánh sáng, xuất hiện ở
1 vị trí đẹp nhất: đèo cao, trong tư thế đẹp nhất: hình ảnh người lao
động VB chịu thương chịu khó, đi giữa cánh rừng hùng vĩ trong tứ
thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời => Đầy kiêu hãnh và vững
chãi. (Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng
ta – Nguyễn Đình Thi).
• Hình ảnh con người trở thành linh hồn cho bức tranh mùa
đông ở Việt Bắc.
Mùa xuân: Thế nhưng trong thơ của Tố Hữu, hình ảnh cô gái dân tộc
- Thiên nhiên: hiện lên rất thơ mộng, gần gũi, thân thương, tràn đầy sức
• Hình ảnh hoa mơ: Trắng dịu dàng, tinh khiết, trong trẻo. sống).
=> Tín hiệu mùa xuân đặc trưng về trên Việt Bắc. • Hai chữ “một mình” nhưng không hề gợi lên sự cô đơn, hiu
• Từ “nở" đặt ở giữa câu thơ => Bừng lên sức sống của mùa hắt.
xuân. • Đang làm bạn với thiên nhiên trong tư thế làm chủ thiên
• Trắng: trắng cả thời gian ngày xuân, trắng cả không gian nhiên, làm chủ đất trời.
rừng núi. Màu trắng trong trẻo, tinh khiết dường như đã lấn át => Giọng thơ da diết, bâng khuâng.
cả màu xanh của lá làm bừng sáng cả khu rừng => Người đọc
có cảm giác bâng khuâng như đang dạo chơi trong 1 không Mùa thu:
gian dịu mát, nhẹ nhàng của những đồi hoa mơ. - Thiên nhiên:
(Liên hệ với 1 bài thơ khác của Tố Hữu: • Hình ảnh rừng Việt Bắc vào mùa thu, dưới ánh trăng hiền
“Ôi sáng xuân nay xuân 41 hòa.
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ => Khoảng thời gian đẹp nhất gợi ra sự thanh bình, yên ả.
Bác về im lặng con chim hót • Chữ “rọi” được dùng rất hay, như muốn nói tới ánh trăng
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”) đang tràn ngập bao trùm cả không gian núi rừng Việt Bắc
- Con người: => Ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên
• Trong công việc đan nón - một nghề truyền thống của người từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.
Việt Bắc => Hình ảnh đẹp tự nhiên trong công việc hàng • Chính là ánh trăng báo hiệu về sự hòa bình, sự thắng lợi của
ngày. Cách mạng.
• “Chuốt từng sợi giang” => Nói lên những phẩm chất tốt - Con người:
đẹp của con người lao động Việt Bắc: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo • Xuất hiện với hình ảnh tiếng hát - tiếng hát của đồng bào
léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút. Việt Bắc - Lời hát của những người ở lại nhắc nhớ về “ân tình
thủy chung”.
Mùa hạ:
• Là tiếng hát của đồng bào miền ngược gửi người về xuôi
- Thiên nhiên:
với biết bao niềm thương nỗi nhớ. Tiếng hát thể hiện sự gắn
• Những hình ảnh đặc trưng nhất của muag hè Việt Bắc: tiếng
bó, thiết tha, mặn nồng.
ve và hoa phách.
(Có thể liên hệ với đoạn:
• Rừng phách: Mùa xuân còn xanh non mơn mởn những tán “Mình về thành thị xa xôi
lá, vậy mà khi chuyển hạ đã ngay lập tức đổ vàng, đồng loạt Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng
trổ Phố đông, còn nhớ bản làng
bông. Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.”)
• “Đổ” là từ ngữ được sử dụng rất tinh tế: Vừa tạo ra cảm Hoặc liên hệ thêm với đoạn thơ trong bài thơ “Ánh trăng” của
giác đột ngột, biến chuyển bất ngờ, vừa diễn tả rất hay từng nhà thơ Nguyễn Duy để làm sâu sắc vấn đề: Tình cảm - ân
đợt mưa hoa của rừng phách khi có những cơn gió thoảng qua nghĩa thủy chung giữ người đi và kẻ ở:
=> Người đọc liên tưởng tới hình ảnh người mẹ thiên nhiên “Từ ngày về thành phố
gõ nhẹ ngôi sao thần của mình, biến chuyển tài tình về sắc Quen ánh điện cửa gương
màu thiên nhiên Việt Bắc. Vầng trăng đi qua ngõ
=> Bức tranh thiên nhiên có màu sắc, có âm thanh rực rỡ, sôi Như người dưng qua đường...”)
nổi.
- Con người: Khái quát: Nghệ thuật
• Hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái từng búp măng • Thể thơ lục bát mang âm điệu nhẹ nhàng.
rừng • Sử dụng hình ảnh mang tính đặc trưng cao.
=> Trở thành bữa cơm cung cấp cho bộ đội. • Màu sắc kết hợp sinh động, hài hòa.
(Có thể liên hệ với những vần thơ trong bài thơ của nhà thơ
Nguyễn Bính để thấy được trong những vần thơ cũ, hình ảnh
cô gái dân tộc, chân quê thường xuất hiện buổi ban chiều với
những thân phận đau buồn hay sự cô đơn, hiu hắt:
“Cô hái mơ ơi! Cô hái mơ
Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi.”)
Phân tích cụ thể: những đốm nắng. “Hoa chuối đỏ tươi” như đốm lửa ấm áp,
Thiên nhiên Việt Bắc khi thì đậm đà thi vị trong những hình lan tỏa hơi ấm tới những nẻo đường rừng, khe suối, mùa đông
ảnh thơ mộng “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, Việt Bắc từ ấy mà chẳng còn lạnh lẽo, u buồn. Sự ấm áp ấy
bản khói cùng sương...”; khi lại hùng tráng, lớn lao, vững có lẽ chỉ ở Việt Bắc, một Việt Bắc trong lòng Tố Hữu mới có
chãi cùng với con người trong cuộc chiến đấu “Núi giăng được, khác với cái giá lạnh, cô đơn mà trước nay đã trở thành
thành lũy sắt dày - Rừng che bộ đội rừng vây quân thù - đặc trưng của mùa đông:
Mênh mông bốn mặt sương mù...”. Nhưng nhớ thiên nhiên “Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa
cũng là nhớ con người bởi con người Việt Bắc không tách rời Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
mà luôn hòa nhập, gắn bó với thiên nhiên Việt Bắc. Đoạn thơ Cây Trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
dưới đây được coi là bộ tứ bình đẹp mà hết sức tự nhiên, Ai có về tôi gửi áo len cho”
dung dị về thiên nhiên Việt Bắc trong sự hài hòa với hình ảnh (Việt Phương)
con người: Mùa đông của tự nhiên thì rét và lạnh lắm. Nhưng mùa đông
“Ta về mình có nhớ ta trong lòng người cán bộ và nhân dân thì ấm áp nghĩa tình.
Ta về ta nhớ những hoa cùng người Nếu như câu lục khắc họa một khung cảnh núi rừng bao la thì
… câu bát ngay sau đã đem đến hình ảnh trung tâm, nổi bật trên
Nhớ ai tiếng hát ân tình, thủy chung.” nền thiên nhiên ấy: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Giữa khoảng không gian mênh mông vô tận, hình ảnh con
Mở đầu đoạn thơ, tác giả sử dụng lại cách xưng hô đầy gần người lao động hiện lên đầy kiêu hãnh. Nhà thơ không miêu
gũi, thân thương: tả chi tiết mà chỉ nhanh mắt chớp lấy một hình ảnh thần tình
“Ta về, mình có nhớ ta nhất. Đó là khoảnh khắc khi ánh sáng của mặt trời chiếu
Ta về ta nhớ những hoa cùng người” xuống lưỡi dao gài ngang lưng. Con người bây giờ, như một
Cặp đại từ nhân xưng “mình” - “ta” là cách đối đáp quen điểm hội tụ của ánh sáng giữa núi rừng đại ngàn mênh mông,
thuộc của tình yêu đôi lứa, vợ chồng. Bằng cách gọi này, tác giữa lá xanh và hoa đỏ.
giả đã biến cuộc chia tay chính trị giữa cán bộ và người dân Trong nỗi nhớ về khung cảnh Việt Bắc mùa đông, nỗi nhớ ấy
Việt Bắc như cuộc chia tay của đôi lứa yêu nhau đầy bịn rịn, không lạnh lẽo mà ấm áp vô cùng. Nơi núi cao, nơi đại ngàn,
lưu luyến. Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại hai lần diễn tả nỗi nhớ mùa đông không hoang vu, không tàn tạ thê lương mà thật
dâng trào mãnh liệt không kìm nén được, một lần nữa lại ấm áp.
nhấn mạnh cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ thương da Đông qua xuân tới, đất trời cũng có sự đổi thay:
diết. Điệp ngữ “ta về” lặp lại hai lần và đứng đầu mỗi dòng “Ngày xuân mơ nở trắng rừng
thơ giúp tô đậm tâm trạng người ra đi, thể hiện sự tiếc nuối, Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
không nỡ rời xa. Rằng thời khắc chia tay đã điểm, người cán Hoa mơ - tín hiệu mùa xuân dễ thấy nhất ở núi đồi Việt Bắc.
bộ cách mạng lưu luyến chia xa với đồng bào hay chính là Khung cảnh choáng ngợp sắc trắng được vẽ ra chính là tín
phần đời đi trước đã sớm tối quen với đời sống kháng chiến hiệu đầu tiên báo mùa xuân về cùng với đồng bào. Mùa xuân
gian lao nay phải nói lời tạm biệt ân tình với phần đời sau mai tới mang theo bao điều tốt lành, mùa xuân là mùa của khởi
này về với thủ đô Hà Nội. Nhưng dù là lời chia tay cất lên từ sự, là mùa của sinh sôi, là mùa bắt đầu cho một năm mới sức
ai, ở khoảnh khắc nào thì nỗi nhớ vẫn luôn là cung bậc cảm khỏe và may mắn. Người ra đi quả thực đã lựa chọn hình ảnh
xúc tha thiết nhất. Ở đây là “nhớ hoa cùng người”. “Hoa” là rất tiêu biểu khi nhớ về mùa xuân Việt Bắc. Phép đảo ngữ
biểu tượng cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, còn “người” “trắng rừng” là một tín hiệu nghệ thuật độc đáo giúp cho nhà
được coi là “hoa của đất” theo như cách nói của dân gian: thơ thể hiện tinh tế vềkhoảng không gian ngập tràn sắc trắng
“Người ta là hoa đất”, kết hợp với từ “cùng” như càng tinh khôi. Ta ngỡ như trước mắt bây giờ là cả một khu vườn
khẳng định rõ hơn sự gắn kết, hòa quyện giữa thiên nhiên và mơ đang nở rộ, làm bừng giác quan của con người. Thơ Tố
con người nơi rẻo cao Tây Bắc này. Hữu lúc nào cũng khỏe khoắn, mãnh liệt, sục sôi như thế, là
Và cứ thế, ngòi bút người nghệ sĩ viết thơ mà như cầm cọ vẽ “trắng rừng”, là “ngày xuân mơ nở trắng rừng”, là “trắng
nên bức tranh tứ bình mộc mạc, sinh động. Tố Hữu chọn mùa rừng biên giới nở hoa mơ” (“Theo chân Bác”), chứ không
đông là mùa khởi đầu cho tứ thơ: nhẹ nhàng, chỉ là “trắng điểm”, điểm xuyết như trong thơ
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi xưa:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” “Cỏ non xanh tận chân trời
Khắc họa lại mùa đông Việt Bắc, có lẽ chính Tố Hữu đã quay Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
lại thời điểm lần đầu gặp gỡ đầy bỡ ngỡ, theo mạch cảm xúc, (Nguyễn Du)
nhà thơ nhớ lại kỉ niệm của một thời gian khó. Câu thơ đầu Trong cái nền của một không gian với sắc trắng tinh khôi và
tiên sử dụng bút pháp chấm phá, nổi bật trên nền xanh rộng tràn trề nhựa sống, ta bắt gặp hình ảnh con người: “Nhớ
lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối và màu vàng của người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh con người
Việt Bắc mùa xuân gắn liền với công việc lao động hăng say Hình ảnh vầng trăng là một hình ảnh quen thuộc và trở thành
và ý nghĩa, làm nên những chiếc nón gửi tặng người chiến sĩ nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà thơ, đặc biệt trong thời
khi mưa nắng mỗi ngày. Chi tiết “chuốt từng sợi giang” bên kì cách mạng:
cạnh việc miêu tả sự chau chuốt, tỉ mỉ của người lao động còn “Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
là chi tiết tiêu biểu cho bàn tay khéo léo, cho tâm hồn tài hoa Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
của đồng bào Việt Bắc đã làm nên vẻ đẹp bao đời. Mùa xuân Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
sức sống đang tràn trề và tiếp nối ngay sau là mùa hạ rực rỡ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
sáng tươi: (“Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh)
“Ve kêu rừng phách đổ vàng Còn ở đoạn thơ này, hình ảnh ánh trăng được miêu tả giữa
Nhớ cô em gái hái măng một mình” không gian rừng núi, ánh trăng như ẩn như hiện dưới những
vòm cây vừa gợi lên vẻ đẹp trong trẻo, vừa lung linh, lại
Tố Hữu tài lắm, và cũng tình lắm. Nhà thơ bắt được những huyền ảo. Ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc,
cảnh đẹp nhất và cũng là đặc trưng nhất của mỗi mùa. Và đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui, hạnh phúc và tự do.
mùa hạ nơi rẻo cao Tây Bắc làm sao thiếu được tiếng ve Trong không gian ấy, tiếng “ai” ngân nga khúc hát “ân tình
ngân. Không chỉ thuần nhất gợi tả màu sắc nữa mà đến đây, thủy chung”. Từ “ai” được dùng để phiếm chỉ, “ai” đó có
không khí mùa hạ đã rộn ràng hơn bởi âm thanh tiếng ve là thể là người thiếu nữ đứng hát dưới trăng, đó cũng có thể là
một tín hiệu quen thuộc báo hiệu hè về. Nó tạo nên một khúc cả đất trời, nhân dân Việt Bắc. Con người say sưa cất tiếng
nhạc rừng rộn rã tưng bừng, náo nhiệt, làm cho không gian hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng “thủy chung”, nặng
rừng núi náo nức một sức sống mới. Cách miêu tả của Tố “ân tình”. Tiếng hát ấy vừa gợi nhắc những kỷ niệm của
Hữu như mở ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên người ra đi và người ở lại vừa như lời nhắn nhủ, mong muốn
sinh động, ta có cảm giác như tiếng ve ngân đến đâu thì rừng người ra đi không quên những kỉ niệm của năm tháng gian
phách “đổ vàng” đến đó. Là bàn tay tạo hóa diệu kì hay ngôn lao, nhưng đồng thời cũng là lời ước nguyện, khẳng định của
từ tài hoa đã nhuốm màu cho cảnh vật? Toàn bộ khung cảnh người ra đi về đạo lý sống ân tình, thủy chung. Chính vì vậy
thiên nhiên như đột ngột chuyển sangsắc vàng qua động từ ở vị trí kết thúc của bức tranh tứ bình, tiếng hát ấy như ngân
“đổ”. Ấy là sắc vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, nga, vang vọng mãi trong không gian, trong lòng người.
đầy sức sống. Ấy cũng có thể là chính tiếng ve đã đánh thức
rừng phách nở hoa. Động từ “đổ” trong câu thơ được diễn tả Khái quát :
rất tinh tế và chính xác. Nó diễn tả sự nhanh chóng, đột ngột Bức tranh tứ bình về Việt Bắc được Tố Hữu khắc họa đầy ấn
của cảnh sắc thiên nhiên khi hè về. Nói như nhà nghiên cứu tượng với những màu sắc tươi sáng, ấm áp, âm thanh rộn rã.
Nguyễn Thị Hà: “Chữ “đổ” vừa gợi sự chuyển biến mau lẹ Mùa nào cũng đẹp, cũng đằm thắm, tinh tế. Vẻ đẹp thiên
của màu sắc, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng nhiên Việt Bắc và con người đan cài, hòa quyện làm cho tình
phách khi có ngọn gió thoảng qua vừa thể hiện chính xác hè yêu Việt Bắc càng nồng nàn, nỗi nhớ Việt Bắc càng thêm da
sang. tác giả đã dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng diết. Thể thơ lục bát ngọt ngào, điệp từ “nhớ” nhấn mạnh
không gian để gọi dậy thời gian. Bởi vậy cảnh vừa thực cung bậc tình cảm chủ đạo, kết hợp cùng những từ ngữ giản
nhưng cũng vô cùng huyền ảo.” Với cách sử dụng từ ngữ dị, đượm nghĩa đượm tình, cấu trúc đan xen câu lục tả cảnh
chính xác giàu liên tưởng, bức tranh thiên nhiên mùa hạ được câu bát tả người đã đem đến một đoạn thơ đặc sắc, đẹp cả về
đánh giá đặc sắc nhất trong bộ tranh tứ bình. Độc đáo và đặc ý nghĩa nội dung và nghệ thuật biểu hiện.
sắc là vậy nhưng bức tranh hè về cũng không nằm ngoài thứ
tự miêu tả từ thiên nhiên đến con người: “Nhớ cô em gái hái
măng một mình”. Gọi là “cô em gái” - một cách gọi thể hiện
sự trân trọng, yêu thương trìu mến của tác giả với đồng bào
Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự
chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Hoạt động “hái măng một
mình” cũng giúp cân bằng lại sự rực rỡ, rộn ràng của mùa hạ,
kéo không khí trở lại với mạch cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
- nỗi nhớ.
Nếu ba bức tranh trước được tác giả khắc họa vào ban ngày
thì bức tranh mùa thu lại được miêu tả vào ban đêm:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
5 . 10 câu tiếp - Tái hiện lại kỷ niệm những ngày kháng chiến Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến
gắn với thiên nhiên Việt Bắc: khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát
triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng - “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng,
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một
Núi giăng thành lũy sắt dày lòng”: Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng vềs ứ mệnh
Mênh mông bốn mặt sương mù bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
=> Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những
Ai về ai có nhớ không? chiến công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
đều gắn với một thắng lợi vinh quang.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
“Ai về ai có nhớ không ?
- Trong những ngày đầu kháng chiến gian khổ của giai đoạn cầm
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
cự, phòng ngự, bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Bắc hiểm trở để đánh địch.
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
- Trước giờ khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà
- Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm
cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với cuộc
vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu
kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng
trả lời: “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả lời, đồng thời cũng là câu
cũng trở nên có chí, có tình người, đã trở thành những người
nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ.
bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn
- Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những
quân.
sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra
- Chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải
các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô phố
kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo lên thế hiểm của trường
Ràng: Trận sông Lô đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt
thành của lũy thép vây bọc quân thù.
Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng : Cao Bằng và Lạng
Nhớ về lúc kháng chiến, khi giặc đánh giặc lùng, cũng là khi
Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới ViệtTrung.
quân ta đang khó khăn xoay sở tình thế, ta biết địch mạnh hơn ta
=> Đó là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang
rất nhiều, nhưng trên trận địa quen thuộc nói là thua địch cũng
tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những bước đầu
không phải là dễ.
quan trọng ấy đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và
- Rừng cây núi đá “ta cùng” đánh Tây, bằng phép nhân hóa,
lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối
rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đá để rồi trên dưới một lòng
cùng.
cùng con người đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời thể hiện
- Điệp từ “nhớ” nhớ đến những trận đánh, những chiến công
tình cảm giữa con người kháng chiến và thiên nhiên núi rừng
oanh tạc như thế là niềm tự hào của cá nhân những người tham
Việt Bắc rất tha thiết, bao la.
gia kháng chiến. Chiến thắng nào mà chẳng phải trả giá. Có lẽ
- Ở cặp lục bát thứ hai ta sẽ thấy rõ hơn công việc của thiên
họ không những nhớ đến những chiến công oanh liệt như thế mà
nhiên núi rừng Việt Bắc. Núi thì giăng thành lũy, rừng thì đảm
còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên đồng đội của mình, họ đã
nhận hai công việc. Như một người mẹ che chở cho con mình,
phải chia tay ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương
rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước.
của cả dân tộc.
- Rừng trở nên kiên quyết đến dữ dằn cùng với việc vây quân
=> Qua đó nhà thơ như cũng muốn thắp lên nén tâm hương để
thù để tiêu diệt, cái trùng trùng điệp điệp của rừng, cái khí thế
tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì nghĩa lớn vì sự nghiệp
hiên ngang kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ
của dân tộc, của đất nước.
thù khiếp sợ và bất lực. Quả thật Việt Bắc đã trở thành “Địa linh
nhân kiệt” kể từ đó. Qua đó càng làm sáng tỏ thêm nhận định:
Việt Bắc là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
- Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng
tráng vừa thơ mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên
nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến.
- Không gian là hang núi chật hẹp mà vẫn lồng lộng gió lùa,
rực rỡ ánh sao vàng, chan hòa ánh nắng. Cảnh đẹp và sự trang
nghiêm thế hiện sự thay đổi từ đêm tối gian lao sang ngày
mai tươi sáng.
- Tính chất diễn ca lịch sử nhằm thể hiện những nhiệm vụ cụ
thể của cách mạng: từ điều quân, chiến dịch tới phòng hạn,
thu lương... Khép lại đoạn thơ là hình ảnh Việt Bắc quy tụ
niềm tin, hy vọng của mọi người dân Việt Nam trên khắp mọi
miền Tổ quốc. Dù người về xuôi đã bước chân ra đi nhưng
lòng vẫn gửi lại chiến khu Việt Bắc với bao nhớ nhung ân
nghĩa, ân tình.
IV-TỔNG KẾT:
Không bao giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình
cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn
nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Sự
“ngồi mớm ở mép giường” và hai tay vẫn không rời cái thúng,
chứng tỏ thị hơn ai hết hỉu rõ số phận của mình.
Trong tâm trạng bồn chồn của Tràng và sự tủi thân câm lặng Ở đoạn văn này, tại sao tác giả lại không phân tích tâm trạng
của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở về đã xua tan được không khí bế của người đàn bà, tâm trạng nơm nớp vì có lẽ bà cụ Tứ sẽ
tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất một câu chào không bằng lòng?
ấp áp: “U đã về ạ”. Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà
cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà lục vấn hỏi han gì Nhà văn Kim Lân:
con trai, điều mà các bà mẹ thường làm. Vậy trong mạch Tôi vẫn có ý định không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của
truyện, sự đồng ý nhanh chóng của người mẹ có quá gượng người đàn bà. Tôi muốn qua cách nhìn của Tràng, của bà cụ
ép? Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của chị. Ở đây, mỗi khi
Nhà văn Kim Lân: thay đổi cách gọi: người đàn bà, thị, ả là một lần “nhân vật vợ
mới” thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn
Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay từ khi giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm
về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự vui vẻ và chờ đợi “nóng cả ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng “nhà nghèo” và
ruột” của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn “năm nay thì đói to” nên chỉ cần “chúng mày hoà hợp là u
bà lạ ở trong nhà mà lại đứng ở “đầu giường thằng con”. mừng”. Sự thành thật xen lẫn nỗi đắng cay khiến bà khóc.
Người đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải Bàkhóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó
thích đến nỗi bà cụ tưởng nhầm mình đang mơ thấy cái Đục – có thể giữ nổi trong cuộc sống đói khổ này.
cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải thích, bà “nín
lặng” hiểu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng Tràng hồi hộp, háo hức chờ mẹ và khi bà cụ Tứ đồng ý ,
là một người mẹ, không lo cho con một cách đàng hoàng như “Tràng thở đánh phào một cái”, như vừa trút hết gánh nặng.
người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ hơn hoàn cảnh của Như vậy là Tràng chính thức có vợ. Nhưng Tràng có hiểu
chúng. “Người ta có gặp bướckhó khăn đói khổ này, người ta được những giọt nước mắt của mẹ?
mới lấy mình. Mà con mình mới có vợ được” bà nghĩ. Có thể Nhà văn Kim Lân:
bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác
“hàm ơn” đối với người đàn bà là nhiều hơn, người đã giúp Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ những viễn
bà “lo” cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc sắc của Tràng. Tràng tin
dám tin rằng “Chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói tưởng ở mình, tin tưởng ở những điều tốt đẹp nảy sinh từ lòng
khát này”. Ý nghĩ về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan mình. Những điều đó không thể có một kết cục tệ hại được.
có người đàn bà lạ tham dự vào một cách bà đồng ý với Có thể là ý nghĩ nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ và
Tràng . Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn. Dù họ có vợ về điều này.
vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ
thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói treo lơ lửng trước mặt. Và ngọn đèn Tràng thắp lên đã an ủi cả mấy người?
Tương lai của cặp vợ chồng mới nay như bóng tối trong con Nhà văn Kim Lân:
mắt bà. “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy
Tràng “hầm hầm bước vào” và “đánh diêm đốt đèn”. Hành
hai con mắt”. Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống
động kiên quyết tạo ra một hình tượng “Ngọn đèn tỏa sáng
đồng thanh xác nhận điều đó bằng mùi trấu khét lẹt ở nhà
căn nhà tối tăm”. Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về
những người chết. Bà nghĩ đến cuộc đời bà và ngầm so sánh
nhà? Bởi Tràng chỉ thắp khi phải củng cố niềm tin dù là nhỏ
với cuộc sống của cặp vợ chồng này. Chúng chỉ có một điểm
nhoi cho người khác. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho
chung là không một chút nào tươi sáng. Bà nhắc “Con ngồi
một tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với
xuống đây”. Lời nhắc này có ý nghĩa với lời chào thuận lòng
nhau – ba con người đói rách. Ngọn đèn là niềm yêu thương,
của người mẹ. Bà thực sự chấp nhận thị là con dâu bà hay do
cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn
hoàn cảnh mà bà phải chấp nhận?
thương của họ. Và khi thấy sáng , bà lão “vội vàng lau nước
Nhà văn Kim Lân: mắt”. Rõ ràng là căn nhà và trong lòng bà lão đều tối như
nhau. Ánh sáng như một lời hứa quyết tâm của người con trai
Cuộc gặp đầu tiên đó không có cái ý nghĩa “mẹ chồng con gửi đến bà mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai
dâu”. Cái tình cảm chiếm nhiều nhất trong lòng bà cụ Tứ là bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ
tình cảm “thương xót” một người đàn bà cùng đường. Hơn “uể oải” đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của ánh sáng cũng chỉ
nữa, có một nỗi “hàm ơn mơ hồ” luôn bám lấy bà. Người đàn là một viễn cảnh quá xa.
bà đã giúp bà cái việc không thể làm cho con trai là lấy vợ
(Kim Lân, ‘Vợ nhặt’, in trong Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác
cho anh ta.
giả có tác phẩm giảng dạy trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ
biên, Nxb Trẻ, 2000)
Ánh sáng soi rõ lòng bà mẹ và một lần nữa ngọn đèn tỏa rọi Nhà văn Kim Lân:
vào cuộc sống chung của đôi vợ chồng mới?
Ở đây tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muốn thể hiện
Nhà văn Kim Lân: cuộc sống của một cặp vợ chồng mới trong nạn đói. Cho nên
cuộc sống đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó
Thực tại luôn luôn kéo người ta lại với nó. “Tiếng ai hờ khóc mà niềm vui của cặp vợ chồng luôn bấp bênh. Ở đây có một
ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ” đã lấy mất không khí ẩn ý: Cả ba người đều không quên thực tại và cố gắng của họ
lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến.Cả hai một lần nữa lại là tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối tăm. Cái bữa ăn đầu
“sượng sùng” không biết nói gì. Hình ảnh thực nhất là hình tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa như bữa “tiệc
ảnh “ngọn đèn” hạnh phúc tương lai soi rọi họ và “kéo dài hai cưới” tội nghiệp. “Giữa cái mẹ rách có độc một chùm rau
cái bóng trên vách”. Hai cái bóng đó chính là cuộc sống thực chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Sự tồi tàn của
của họ. Hai cái bóng lờ mờ, lê thê, khốn khổ. Sự thật trần trụi bữa ăn trong tương phản niềm vui của họ. Họ đều “ăn rất
họ phải tiếp nhận là như thế. ngon lành” và “vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh”. Họ
gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan
Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đêm hạnh phúc. Mọi khó
ngoãn và nghe lời mẹ. “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con
khăn đều tạm thời quên đi. Hai người hưởng cái niềm vui tột
lại hòa hợp thế”. Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ.
cùng mà thiên nhiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được
Nhưng “tiệc cưới” kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai
bao quanh bởi “tiếng khóc tỉ tê nghe càng rõ”. Một đêm tân
lưng cháo “lõng bõng”. Màn cuối của bữa hoàn toàn phũ
hôn trong tiếng khóc người chết và mùi trấu hun khê nồng.
phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu
Tràng có cảm thấy hạnh phúc không?
đón lấy bát ăn và “đưa lên mắt nhìn” rồi “hai con mắt thị tối
Nhà văn Kim Lân: lại” vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sống mới.
Nhưng thị đã “điềm nhiên và vào miệng”. Đấy dù sao cũng là
Tôi tả đêm tân hôn trong hoàn cảnh đó và để phân tích xem lối tốt nhất cho cuộc đời của thị.
hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng cái đói không. Tràng
hạnh phúc. Trong khung cảnh tăm tối và ghê rợn như thế Nồi cháo cám đã đập tan không khí vui tươi ở phần đầu bữa
nhưng niềm vui của con người vẫn không mất đi. Sáng hôm ăn. “ Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho
sau, Tràng thức dậy rất muộn khi “mặt trời lên bằng con xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào
sào”, chứng tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta tâm trí mọi người”. Trong sách văn học lớp 12, phần được
trở thành một con người khác. Một người chồng thực sự. Ánh trích giảng cũng dừng ở đoạn này. Câu văn dường như bóc
nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa soi vào hai con mắt của nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuộc sống để cho cả ba
Tràng và mọi thứ bỗng nhiên thay đổi. thấy cái “đắng chát”, “cái nghẹn bứ trong cổ”. Cuộc sống
không báo hiệu một tia hy vọng nào?
Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế?
Nhà văn Kim Lân:
Nhà văn Kim Lân:
Thực ra với tứ truyện “Vợ nhặt” truyện nên kết thúc ở đây.
Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do điều kiện của tờ báo
Tràng thấy mọi thứ “mới mẻ, khác lạ”. Nhà cửa, vườn tược bấy giờ , truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc
được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo cũ giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt
được giặt giũ và phơi nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người
hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy là người vợ đang “quét là có hy vọng vào tương lai.
lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.
Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe nhưng chưa Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động
bao giờ gợi cảm như thế. Người vợ mới muốn quét mạnh tay nhất cho riêng nhà văn?
để tạo ra những âm thanh rộn rã khẳng định sự có mặt của
Nhà văn Kim Lân:
mình trong ngôi nhà.
Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn bà
Cảnh tượng đó đã khiến Tràng thấy “thương yêu gắn bó với
cụ Tứ trở về. Ở đây tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh
cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng là con, là chồng, Tràng có
chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ
nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái
thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà
niềm vui của cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có “một
cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó
nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”
chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt.
và “cũng muốn làm một việc gì để dự phần sửa lại căn nhà”.
Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.
Tất cả mọi người đều hiểu phải tiến gần nhau hơn?
Nhận xét về tác giả và tác phẩm 9. Cái đói là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và
thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của
1. Với "Vợ nhặt", Kim Lân từng tâm sự: "Khi viết về nạn đói đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và
người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về bất lực của con người trước đó. Con người phạm tội và làm
con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng
chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa
khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn mơ hồ vào cuộc sống tương lai. - Kim Lân
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn
sống, sống cho ra con người". 10. "Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm
khủng khiếp ấy" – Tô Hoài
2. "Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái đòn bẩy để nâng con người
lên tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ 11. “Đói, nó vừa đắng cay, vừa đau đớn, đồng thời một mặt
trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng". nào đó nó lại lóe lên một tia sáng về đạo đức, danh dự"
- Trần Đồng Minh – Kim Lân
3. Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” 12. “Nạn đói năm 1945 thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa
với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. có người chết đói vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi
- Nguyên Hồng tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác khắp nơi. Khi
con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn
4. “Dùng lý lẽ để thuyết phục trong văn chương cũng là một bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra hết. Chết
thứ cưỡng chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần,
người ta không giữ được chính mình. Nói một cách khác hết quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua năm tháng đó.
sức mềm mại thì người cầm bút phải viết như chơi, viết thoải Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức
mái bằng tấm lòng của mình, hướng vào cái thật, cái đẹp, sống đơn sơ của tâm hồn họ. Nó vừa đắng cay vừa đớn đau,
giúp cho con người sống thật, sống đẹp với nhau. Và khi nhà đồng thời lóe lên những tia sáng về đạo đức và danh dự”
văn gặp cái gì trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình, (Sách tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm
phải dám lên tiếng nữa”. - Kim Lân văn học Việt Nam hiện đại, NXB Giáo Dục, 2001)
5. Kim Lân chọn bối cảnh ấy (nạn đói năm 1945) cho truyện
Vợ nhặt không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những
dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở
Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn
rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp
sợ, rụng rời. - Trần Đồng Minh
6. “Vợ nhặt” dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt
lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực
trước Cách mạng Tháng Tám 1945 - Vũ Dương Quỹ
8. Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân
cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng
chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời...Mỗi lần
mở những trang viết ít ỏi ấy ta lại cảm thấy không một bước
ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong
gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ
bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn.
- Trần Ninh Hồ
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: - Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các
chi tiết khác được kể tới đều xoay quanh tình huống này.
1. Ý nghĩa nhan đề: - Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến
- “Vợ nhặt” = “vợ” (danh từ) + “nhặt” (động từ). Nhưng khi bước đường cùng, biến giá trị con người thành số không.
ghép thành một từ thì động từ “nhặt” trở thành tính từ, “vợ - Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm
nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ. lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ.
- “Vợ nhặt” là vợ theo không, người vợ không mai mối, - Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người
không lễ nghĩa cưới xin. Lẽ thường, chúng ta chỉ biết tới việc lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng.
nhặt nhạnh những đồ vật, vật dụng nhỏ bé như nhặt cọng rơm 3. Bối cảnh truyện:
ngọn cỏ, thế nhưng ở đây, có một sự thật thật trớ trêu và bi - Nạn đói thê thảm mùa xuân 1945.
hài đó là nhặt được vợ. - Tác giả chọn cách mở đầu tác phẩm, dẫn chúng ta vào
- Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của không gian của cái đói: “Cái đói tràn đến xóm ngụ cư này tự
tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình
phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như
bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã chấp nhận những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết
theo không một người đàn ông. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ như ngả ra. Không buổi sáng nào người đi chợ, đi làm đồng
nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa không gặp 3, 4 cái thây nằm còng queo bên đường, không khí
trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xácngười...”
kịch. Chỉ với một vài nét phác họa của mình, Kim Lân đã gợi lại
- Nhan đề của tác phẩm mang sức mạnh tố cáo xã hội phong cho người đọc cả một khoảng thời gian lịch sử đau thương
kiến và bọn thực dân đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng khi những người dân Việt Nam không thể vượt qua cái đói.
thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ - Nạn đói bây giờ đã tràn đến xóm ngụ cư mang theo lưỡi hái
đẹpcủa nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy tử thần đi tới đâu quét sạch tới đó. “Trẻ con ngồi yên buồn
vọng về cuộc sống, đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà không nhúc nhích dưới những xó tường” “Bóng những người
văn muốn gửi gắm. đói đi lài dật dờ như những bóng ma”. Hai lần Kim Lân so
- Khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chúng ta bắt gặp một điều gì đó sánh người với ma, khiến cho người đọc liên tưởng miền trần
rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho gian mà ta cứ ngỡ như miền địa ngục. Ranh giới giữa người
độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này. và ma, giữa sự sống và cái chết, giữa trần gian và địa ngục
2. Tình huống truyện: thật đỗi mỏng manh. Cõi âm bây giờ như đang hòa với cõi
a. Khái niệm tình huống truyện trần, cõi trần mấp mé miệng vực âm phủ.
- Tình huống truyện là một trong ba yếu tố cơ bản của truyện 4. Diễn biến tâm lý của người dân xóm ngụ cư:
ngắn. - Đối với những người dân nghèo trong xóm ngụ cư, việc
- Tình huống truyện là tình thế nảy ra truyện, là hoàn cảnh mà Tràng có vợ thực sự làm họ rất ngạc nhiên. Đây thực sự là
nhà văn đặt nhân vật của mình vào đó để nhân vật truyện bộc một biến động nho nhỏ. Họ mừng, nhưng cũng lo thay cho
lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của mỗi thiên truyện anh. Tràng đưa người đàn bà về xóm ngụ cư trong một buổi
cũng nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. chiều chạng vạng khiến cho “những khuôn mặt hốc hác vì đói
- Về phân loại có 3 loại tình huống truyện: Tình huống tâm bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Xóm ngụ cư vốn đang bị đè
trạng, tình huống nhận thức, tình huống hành động. Tình nặng bởi chết chóc và đói khát bỗng dưng “có cái gì lạ lùng
huống trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là tình huống hành động. và tươi mát thổi vào”.
b. Tình huống truyện “Vợ nhặt” - Thế nhưng, sau niềm vui cùng người hàng xóm của mình,
- Tình huống độc đáo, bất ngờ và éo le: họ giấu một tiếng thở dài ngao ngán. Họ ái ngại cho cuộc
+ Một anh nông dân nghèo khổ, xấu trai, dân ngụ cư bỗng sống của gia đình nhà Tràng sau này vì “biết có nuôi nổi nhau
nhiên lấy được vợ mà không cần cưới xin, vợ theo không, vợ sống qua cái thì này không?”. Trong thời điểm này, nói
nhặt. không ngoa nhưng chính xác “vợ là của nợ đời”.
+ Tràng nhặt được vợ trong những ngày đói khát thê thảm - Song, ta có thể nhìn thấy sự sẻ chia của những người hàng
đến nuôi thân còn chẳng xong, huống chi còn “đèo bòng”. xóm dành cho nhau. Cuộc sống đói khổ đến vậy, nhưng họ
- Nhận xét: tình huống vừa lạ, vừa hết sức éo le, là đầu mối vẫn lo lắng cho những người ở bên cạnh mình. Đây là một
cho sự phát triển của truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng trong những minh chứng cho phẩm chất tốt đẹp của những
và hành động của các nhân vật. Từ đó chủ đề của tác phẩm người dân lao động xưa.
được bộc lộ: dù hiện thực có bi đát đến đâu, con người vẫn
không đánh mất niềm tin vào tương lai và vẫn khát khao hạnh
phúc lứa đôi.
c. Ý nghĩa tình huống truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân
5. Nhân vật Tràng: Trong lúc này, anh cu Tràng dường như đang quên hết tất cả
a. Ngoại hình, lai lịch, phẩm chất: những đói khổ đang đợi mình phía trước để vui với niềm vui
Ngoại hình, lai lịch có vợ, để hạnh phúc khi kể từ bây giờ anh sẽ có một người
- Tràng được nhà văn miêu tả ở phần đầu của truyện với những đàn bà nguyện lòng ở bên mình “trong lòng hắn bây giờ chỉ
đường nét thô kệch như một sự đẽo gọt sơ sài của tạo hóa: đầu còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên”. Có một cái gì mới
cạo trọc, hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ này.
quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vập vạp, cái - Về đến nhà, Tràng cảm thấy ngượng ngập vì gia cảnh chua
lưng to như lưng gấu, lại có cái tật vừa đi vừa nói, hắn lảm nhảm xót của mình “Cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
những điều hắn nghĩ. mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”. Đây là lúc hắn phải đối
- Tràng còn là dân ngụ cư, trôi dạt từ một nơi đói khát khổ sở diện với thực tại, hoàn cảnh khắc nghiệt của mình. Vì vậy mà
nào đó đến để tìm kế mưu sinh, nuôi mẹ già ở độ tuổi gần đất xa vào đến nhà sau mấy câu nói xã giao, chàng bỗng “đứng tây
trời, cuộc sống nghèo khổ, chật vật với nghề kéo xe thóc thuê.
ngây giữa nhà”, “hắn thấy sờ sợ”.
=> Giữa bối cảnh tăm tối, ảm đạm bởi cái đói và sự chết chóc
- Nhìn người phụ nữ đang ngồi trên giường nhà mình, Tràng
bủa vây, nhân vật anh cu Tràng hiện lên với dáng vẻ ngoại hình
bây giờ cứ ngờ ngợ như không phải: “Ra là hắn đã có vợ rồi
cũng không mấy sáng sủa và có tương lai khá khẩm.
ư?”. Tràng hồi hộp lo lắng chờ đón khoảnh khắc mẹ về nhà
Phẩm chất
và tiếp nhận cô con dâu của mình. Anh đã rất hồi hộp, để rồi
- Bên trong dáng vẻ thô kệch kia lại là một con người thuần hậu,
thở phào khi mẹ của anh – một người mẹ nhân hậu và giàu
hiền lành, chất phác, dễ gần. Chẳng phải tự nhiên mà anh cu
lòng yêu thương đã bằng lòng với nàng dâu mới. “Tràng thở
Tràng được trẻ con trong xóm quý lắm. Cứ mỗi chiều anh đi lắm
về, trẻ con trong xóm lại “ùa cả ra”, “vây lấy”, “reo cười váng đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi”.
lên”, “đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù đứa kéo => Có thể thấy rằng từ khi sự kiện “nhặt được vợ” xảy ra,
đứa lôi chân không cho đi.” tâm lý của Tràng thay đổi liên tục với những biến thiên khác
- Tràng còn là một người có tấm lòng nhân hậu, giàu lòng bao biệt. Từ ngạc nhiên, bất ngờ đến chấp nhận sự thật, từ lạ lẫm
dung, lại có tinh thần “trượng nghĩa”, hào phóng, sẵn sàng cưu đến gần gũi, từ lo sợ đến hòa hợp, từ buồn tủi đến tươi vui, từ
mang một người phụ nữ xa lạ khi người đó hầu như ở vào hoàn xa lạ đến thân mật rồi thành vợ thành chồng. Anh cu Tràng
cảnh đói rách thê thảm. giờ chẳng còn ngờ nghệch, khờ khạo nữa mà đã trưởng thành
b.Tình huống truyện - Tràng nhặt được vợ: hơn cả trong suy nghĩ và hành động. Đó là những diễn biến tự
Một người đàn bà xa lạ đã theo về làm vợ Tràng chỉ sau hai nhiên và hợp lí với tâm tưởng của một con người đang phải
lần gặp mặt, bốn bát bánh đúc và một câu nói tầm phơ tầm gồng mình trong cái đói nhưng vẫn khát khao hạnh phúc gia
phào: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe đình.
rồi cùng về.” - Hạnh phúc đã đến với Tràng, trong đêm tân hôn của đôi vợ
chồng trẻ diễn ra trong không gian sặc mùi chết chóc với
c. Diễn biến tâm lí và hành động của Tràng: tiếng khóc ai oán của những người mẹ mất con. Hạnh phúc
- Ban đầu, Tràng nghĩ cũng thấy “chợn”, bởi thóc gạo tầm này, bây giờ, đang được ươm mầm trên nền của cảnh chết chóc
thân mình còn không biết có nuôi nổi không mà còn “đèo bòng”, tang thương. Giữa bối cảnh của cái đói, của sự chết chóc
thế nhưng chàng lại tặc lưỡi cho qua. Thật bất ngờ, anh cu Tràng khốn cùng, hạnh phúc vẫn đang được ươm mầm, nảy nở. Một
đã có vợ, tiếp nối sự sống bên bờ vực của cái chết. Cái tặc lưỡi câu chuyện tình yêu vốn dĩ rất méo mó, bi hài, lại trở thành
quyết định ấy bên ngoài là sự liều lĩnh, nông nổi nhưng bên sự cứu cánh thực sự cho những mảnh đời bất hạnh.
trong là sự khao khát hạnh phúc lứa đôi. Quyết định có vẻ giản - Buổi sáng đầu tiên có vợ, Tràng cảm nhận có một cái gì mới
đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với người gặp cảnh khốn mẻ “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc
cùng. mơ đi ra”, hắn chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa
- Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng có vẻ “phớn phở”, “tự đắc” thay đổi mới mẻ”. Hạnh phúc đã khiến Tràng biến đổi hẳn:
chứ không lầm lũi như mọi ngày. Đứa trẻ to đầu vẫn quen ở với “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà của
mẹ nay đã có vợ để dẫn về nhà. “Hắn tủm tỉm cười nụ một mình hắn lạ lùng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”, “hắn
và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Rõ
đi bên cạnh một người đàn bà, mà người đó lại là vợ mình trước
ràng với tấm lòng khao khát hạnh phúc, Tràng đã đứng vững
bao nhiêu con mắt tò mò, hiếu kỳ của mọi người. Đưa thị về
để cùng người vợ nhặt ước mơ những điều đơn giản nhất của
xóm ngụ cư, hắn có vẻ hãnh diện lắm. Cảm giác hạnh phúc
con người: mái ấm gia đình.
dường như đã bắt đầu nhen nhóm trên đường Tràng dẫn thị về
- Bữa cơm ngày đói thảm hại diễn ra trong không khí gượng
nhà. Đó là cảm giác hạnh phúc vì hắn đã có vợ, hắn cũng trở nên
chín chắn và sâu sắc hơn trong mỗi hành động, cử chỉ của mình. gạo nhưng trong đầu Tràng đã hướng tới những hình ảnh đầy
Dù vẫn còn nhiều ngượng ngập, lúng túng, định nói một câu gì hi vọng về sự đổi đời, về một tương lai tốt đẹp: “Trong óc
đó cho thật tình tứ nhưng cứ ngập ngừng mãi không nói được, Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.”
rồi lại vài ba từ nhát gừng.
Phân tích chi tiết: có mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Như vậy thì cái thiêng liêng
(vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã bộc lộ một quan điểm một mạch khác: chủ thể của cái hành động "nhặt" kia là Tràng,
nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột
của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ
hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà
về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày cụ Tứ - mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.
mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng. Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh
tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng. Anh cu Tràng cục mịch,
Nhà văn miêu tả Tràng ở phần đầu của truyện trong bối cảnh khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Một
ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân người đàn bà xa lạ đã theo về làm vợ Tràng chỉ sau hai lần gặp
Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Tràng hiện lên trong mặt, bốn bát bánh đúc và một câu nói tầm phơ tầm phào: “Này
trang văn Kim Lân với những đường nét thô kệch như một sự nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”
đẽo gọt sơ sài của tạo hóa: đầu cạo trọc, hai con mắt nhỏ tí gà gà
đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định
thân hình to lớn, vập vạp, cái lưng to như lưng gấu, lại có cái tật vừa tầm phơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng hò
vừa đi vừa nói, hắn lảm nhảm những điều hắn nghĩ. Tràng còn là một câu cho đỡ nhọc:
dân ngụ cư, trôi dạt từ một nơi đói khát khổ sở nào đó đến để tìm “Muốn ăn cơm trắng với giò này
kế mưu sinh, nuôi mẹ già ở độ tuổi gần đất xa trời. Cái nghèo Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”
hiện hữu trong “chiếc áo nâu tàng”, cái nhà Tràng thì “vắng teo Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt, ban đầu
đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”, chủ yếu cũng là đùa. Ban đầu, Tràng nghĩ cũng thấy “chợn”, bởi
và Tràng chật vật với nghề kéo xe thóc thuê. Tuy nhiên, trái với thóc gạo tầm này, thân mình còn không biết có nuôi nổi không
dáng vẻ thô kệch kia thì bên trong Tràng lại là một con người mà còn “đèo bòng”, thế nhưng chàng lại tặc lưỡi cho qua. Thật
thuần hậu, hiền lành, chất phác, dễ gần. Chẳng phải tự nhiên mà bất ngờ, anh cu Tràng đã có vợ, tiếp nối sự sống bên bờ vực của
anh cu Tràng được trẻ con trong xóm quý lắm. Cứ mỗi chiều anh cái chết. Cái tặc lưỡi quyết định ấy bên ngoài là sự liều lĩnh,
đi lắm về, trẻ con trong xóm lại “ùa cả ra”, “vây lấy”, “reo cười nông nổi nhưng bên trong là sự khao khát hạnh phúc lứa đôi.
váng lên”, “đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù đứa Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với
kéo đứa lôi chân không cho đi”. người gặp cảnh khốn cùng.
Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng có vẻ “phớn phở” “tự đắc”
Bằng ngòi bút hiện thực của mình, những con người trong nạn chứ không lầm lũi như mọi ngày. Đứa trẻ to đầu vẫn quen ở với
đói thê thảm năm 1945 ấy đã được Kim Lân miêu tả với “khuôn mẹ nay đã có vợ để dẫn về nhà. “Hắn tủm tỉm cười nụ một mình
mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn
Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám đi bên cạnh một người đàn bà, mà người đó lại là vợ mình trước
như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại bao nhiêu con mắt tò mò, hiếu kỳ của mọi người. Đưa thị về
lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới xóm ngụ cư, hắn có vẻ hãnh diện lắm. Cảm giác hạnh phúc
ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi dường như đã bắt đầu nhen nhóm trên đường Tràng dẫn thị về
thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm nhà. Đó là cảm giác hạnh phúc vì hắn đã có vợ, hắn cũng trở nên
giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức chín chắn và sâu sắc hơn trong mỗi hành động, cử chỉ của mình.
khủng khiếp. Giữa bối cảnh tăm tối, ảm đạm bởi cái đói và sự Dù vẫn còn nhiều ngượng ngập, lúng túng, định nói một câu gì
chết chóc bủa vây ấy, nhân vật anh cu Tràng hiện lên với dáng đó cho thật tình tứ nhưng cứ ngập ngừng mãi không nói được,
vẻ ngoại hình cũng không mấy sáng sủa và có tương lai khá rồi lại vài ba từ nhát gừng. Trong lúc này, anh cu Tràng dường
khẩm. như đang quên hết tất cả những đói khổ đang đợi mình phía
trước để vui với niềm vui có vợ, để hạnh phúc khi kể từ bây giờ
Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình anh sẽ có một người đàn bà nguyện lòng ở bên mình “trong lòng
thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên”. “Một
duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo
khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có
Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, Với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ trọng trong cuộc đời,
cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái quyết định tương lai hạnh phúc. Thông thường việc này phải
nhan đề “Vợ nhặt” đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức được hai bên cha mẹ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng
là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân hoàn toàn bất ngờ. Bởi vậy khi đưa thị về tới nhà ban đầu Tràng
lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con cũng có tâm lí lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp mẹ,
người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ Tràng như một đứa trẻ, reo lên: “U đã về đấy!... Sao u về muộn
thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột”.
Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy, Tràng lấy lại được sự bình Chi tiết: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm
tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa “Kìa một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà" là một đột biến quan
nhà tôi nó chào u”. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: “Nhà trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của
tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ... chẳng qua nó cũng là cái Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức.
số cả...”. Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối quan Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: "hắn thấy hắn có bổn
hệ của mình với người phụ nữ để người nghe và bà cụ Tứ buộc phận lo lắng cho vợ con sau này". Tràng thật sự "phục sinh tâm
phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lí giải mối quan hệ hồn" đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
với vợ là duyên số – một cách lý giải của một người từng trải, Bữa cơm ngày đói thảm hại diễn ra trong không khí gượng gạo:
chín chắn, chững chạc. “Giữa cái mẹt rách...muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim Lân đã thể
hiện tài năng ngôn ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả.
Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn còn Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài. Nó nói lên sự nghèo
tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn người phụ nữ đang ngồi trên đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời,
giường nhà mình, Tràng bây giờ cứ ngờ ngợ như không phải: chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói, cái nghèo
“Ra là hắn đã có vợ rồi ư?”. Tràng hồi hộp lo lắng chờ đón những năm 1945. Họ đang cố gắng giành giật lại từng chút sự
khoảnh khắc mẹ về nhà và tiếp nhận cô con dâu của mình. Anh sống từ bàn tay của tử thần. Nhưng trái ngược với những thứ
đã rất hồi hộp, để rồi thở phào khi mẹ của anh – một người mẹ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm trong bữa ăn.
nhân hậu và giàu lòng yêu thương đã bằng lòng với nàng dâu “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn món "chè
mới. “Tràng thở đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi”. đặc biệt" - miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ thì “một
Có thể thấy rằng từ khi sự kiện “nhặt được vợ” xảy ra, tâm lý nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Dù vậy, trong đầu
của Tràng thay đổi liên tục với những biến thiên khác biệt. Từ Tràng đã hướng tới những hình ảnh đầy hi vọng về sự đổi đời,
ngạc nhiên, bất ngờ đến chấp nhận sự thật, từ lạ lẫm đến gần về một tương lai tốt đẹp: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người
gũi, từ lo sợ đến hòa hợp, từ buồn tủi đến tươi vui, từ xa lạ đến đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.” Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín
thân mật rồi thành vợ thành chồng. Anh cu Tràng giờ chẳng còn hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý
ngờ nghệch, khờ khạo nữa mà đã trưởng thành hơn cả trong suy nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người.
nghĩ và hành động. Đó là những diễn biến tự nhiên và hợp lí với Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 -
tâm tưởng của một con người đang phải gồng mình trong cái đói 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng
nhưng vẫn khát khao hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc đã đến với tháng Tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người
Tràng, trong đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
không gian sặc mùi chết chóc với tiếng khóc ai oán của những
người mẹ mất con. Trong đêm tân hôn ấy, Tràng rất hào phóng Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định hiện
thắp sáng căn nhà tối tăm của mình bằng ngọn đèn dầu vàng thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi
đục. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một niềm tin, niềm hi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn
vọng tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với cảnh để khẳng định tư cách ngời sáng của mình. Xét cho cùng,
nhau – ba con người đói rách, là niềm yêu thương, cảm thông hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện được thành
lẫn nhau để cùng vượt lên số phận buồn thương của họ. Hạnh công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người
phúc bây giờ, đang được ươm mầm trên nền của cảnh chết chóc vào sự sống: “Sự sống chẳng bao giờ chán nản” (Xuân Diệu),
tang thương. Giữa bối cảnh của cái đói, của sự chết chóc khốn chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao
cùng, hạnh phúc vẫn đang được ươm mầm, nảy nở. Một câu cả và rất riêng của Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được
chuyện tình yêu vốn dĩ rất méo mó, bi hài, lại trở thành sự cứu nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác
cánh thực sự cho những mảnh đời bất hạnh. viết về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói.
Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong
giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Tràng cảm nhận có một
cái gì mới mẻ “trong người êm ái lửng lơ”, hắn chợt nhận ra
“xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ”.Hạnh phúc đã
khiến Tràng biến đổi hẳn: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu,
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người”. Rõ ràng với tấm lòng khao khát hạnh phúc, Tràng
đã đứng vững để cùng người vợ nhặt ước mơ những điều đơn
giản nhất của con người: mái ấm gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là
một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong
cuộc đời Tràng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực
lẫn giấc mơ.
6. Nhân vật người vợ nhặt: - Bước chân về nhà chồng, nhìn thấy gia cảnh gieo neo trước
a. Tên tuổi, lai lịch, ngoại hình: mắt, thị nén một tiếng thở dài, thất vọng. Tiếng thở dài – chi
- Một người đàn bà vô danh – một số không tròn trĩnh – tiết thật tinh tế mà Kim Lân đã lựa chọn để đưa vào trong tác
không tên, không tuổi, không quê quán, không nghề nghiệp, phẩm của mình, để thể hiện sự nhạy cảm, sự tinh tế trong
không tài sản. Người vợ nhặt xuất hiện trong một tình huống từng thái độ cử chỉ của nhân vật Thị. Thị không muốn Tràng
éo le nhưng cũng thật bi hài. Trớ trêu thay khi cái đói khiến biết được sự thất vọng của mình, thị hiểu rằng đối với một
cho bản thân con người bị dồn ép đến bước đường cùng, phải người đàn ông “lòng tự trọng về gia cảnh” rất quan trọng.
chấp nhận theo không về làm vợ của một người đàn ông dù Chính vì vậy, dẫu có thất vọng bao nhiêu, người phụ ấy cũng
mới chỉ gặp hai lần. Theo không một người đàn ông vừa nén hết để lại trong lòng.
nghèo, vừa xấu, không có chút hứa hẹn nào về tương lai. - Vào đến trong nhà, thị đã được trả lại tất cả những gì là
- Thị xuất hiện với bộ dạng cứ gây ám ảnh mãi trong tâm trí khiêm nhường, ý tứ, e dè của một nàng dâu nông thôn: chỉ
người đọc: “tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thân hình tiều tụy, dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết ngượng nghịu,
khổ sở “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp “tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của Thị khi mới về nhà
hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi
mắt.” nửa vời. Đó cũng chính là tâm thế của Thị lúc bấy giờ, một tư
=> Thân hình ấy, cách ăn mặc ấy đã nói lên một sự thực xót thế đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,...
xa: người ta đã quá nghèo, quá đói, thậm chí đang trên bờ vực nỗi buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng
chết đói. người vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà
b.Hành động theo không của nhân vật: nén tất cả nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc
- Dường như cái đói đã làm thị trở nên chao chát, đanh đá, được, vì thất vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên
liều lĩnh, đánh mất lòng tự trọng, sự e thẹn, bản chất dịu dàng tâm trạng của người đàn bà lúc này đang rối bời đến bội
của người phụ nữ. Gặp lại người đàn ông xa lạ lần thứ hai, thị phần.
đã sầm sập chạy đến “cong cớn đứng trước mặt”, sau đó gợi - Với bà cụ Tứ - mẹ chồng của Thị, Thị luôn biết giữ lễ độ,
ý để được ăn và “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền mọi hành động, cử chỉ, lời nói đều rất lễ phép, đúng mực.
chẳng chuyện trò gì”. - Sáng hôm sau, nàng dâu mới rất biết ý tứ. Cô dậy sớm cùng
- Quyết định theo không Tràng sau đó là một quyết định liều mẹ chồng quét tước, dọn dẹp, gánh nước, giặt giũ, phơi
lĩnh, bất ngờ, khiến chính Tràng cũng phải ngạc nhiên. Theo phóng, sắp lại đồ đạc khiến cho sân ngõ, nhà cửa gọn gàng,
không một người đàn ông xa lạ chưa hề biết gia cảnh, tên sạch sẽ. Thị đã thay đổi hoàn toàn qua điểm nhìn của Tràng:
tuổi, quê quán, chấp nhận trao thân gửi phận cho một người “Tràng nom thị hôm nay khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà
mới chỉ ngỏ lời “tầm phơ tầm phào”. Người đàn bà đã không hiền hậu đúng mực....”
giấu được tình cảnh đói khát và ước mong chạy trốn cái đói - Trong bữa cơm ngày đói, được mẹ chồng đãi món “chè
của mình. khoán” “ngon đáo để” Thị cũng nén cảm xúc của mình lại dù
c. Diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật: món “chè khoán” thực chất là món cháo cám rất đắng, chát,
- Trên đường về nhà, qua xóm ngụ cư, cái vẻ “cong cớn” khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng.
không còn. Chỉ còn một người phụ nữ xấu hổ, ngượng nghịu Thị bây giờ, đã là một người vợ, một cô con dâu đảm đang,
và cũng đầy nữ tính. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi đúng mực, có một gia đình hạnh phúc, yên bình. Thị hướng
xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là
mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn”. Khi nhận thấy cái nhìn tò người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.
mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn
nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi
nữ đã mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn trong tâm trí của Tràng.
của mình, thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi => Không tốn quá nhiều giấy mực, chỉ bằng những chi tiết
thị vẫn còn lòng tự trọng. ngắn gọn nhưng cũng thật đắt giá, Kim Lân đã xây dựng
- Bây giờ, Thị là vợ của Tràng, Thị bảo với Tràng: “Hoang thành công nhân vật người vợ nhặt. Đó là hình ảnh của một
nó vừa chứ” khi anh cu Tràng vui vẻ khoe vừa mua hai hào người phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội nghiệp thế nhưng
dầu, câu nói cụt lủn nhưng lại rất đủ đầy, đủ đầy tình cảm, đủ trong tâm hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, sức sống tiềm
đầy trách nhiệm, đủ đầy cảm xúc, một câu nói thực sự đủ đầy tàng mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở bên bờ vực
của người phụ nữ mà bây giờ Tràng gọi là vợ. thẳm. Nhân vật này cũng là một trong những nhân vật biểu
tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam.
Phân tích chi tiết: sự e thẹn, bản chất dịu dàng của người phụ nữ. Thị “đon đả”
với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn liền một chặp
Lật giở những trang văn thấm đẫm tình người của Kim Lân bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: "Hà, ngon!". Cũng biết đùa,
khi viết về nạn đói năm Ất Dậu 1945, ta chợt bắt gặp hình biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng
ảnh nhân vật thị hiện lên như là một thành công đặc sắc của rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói
Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ tầm phào của Tràng "làm đếch gì có vợ...”, thế là Thị theo về
cùng khổ trong nạn đói. Thị được miêu tả bằng những nét ám ngay, “Thị về thật”. Quyết định theo không Tràng sau đó là
ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác một quyết định liều lĩnh, bất ngờ, khiến chính Tràng cũng
phẩm. phải ngạc nhiên. Theo không một người đàn ông xa lạ chưa
hề biết gia cảnh, tên tuổi, quê quán, chấp nhận trao thân gửi
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc
phận cho một người mới chỉ ngỏ lời “tầm phơ tầm phào”.
khám phá cuộc sống của những con người nghèo khổ trong
Người đàn bà đã không giấu được tình cảnh đói khát và ước
xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống
mong chạy trốn cái đói của mình. Từ dáng điệu, cử chỉ đến
truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ
cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng.
trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác
Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Thị cần có nơi
rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót
nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con
thương cho số phận con người. “Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân
gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi.
thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó
thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:
khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một
đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm "Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
cơm ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"
dâu nhà người ta.Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. (Ca dao)
Qua ngòi bút của Kim Lân, nạn đói thật khủng khiếp. Người
chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này
trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu,
Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.
nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị
cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa Trên đường về nhà, qua xóm ngụ cư, cái vẻ “cong cớn”
nhà kho. Thị hiện lên là một người đàn bà vô danh – một số không còn. Chỉ còn một người phụ nữ xấu hổ, ngượng nghịu
không tròn trĩnh – không tên, không tuổi, không quê quán, và cũng đầy nữ tính. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi
không nghề nghiệp, không tài sản.Không họ tên, không rõ xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
quê quán, tuổi tác, gia đình. Cái đói đã cướp đi tất cả. Người mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn”. Khi nhận thấy cái nhìn tò
vợ nhặt xuất hiện trong một tình huống éo le nhưng cũng thật mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân
bi hài. Trớ trêu thay khi cái đói khiến cho bản thân con người nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ
bị dồn ép đến bước đường cùng, phải chấp nhận theo không nữ đã mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn
về làm vợ của một người đàn ông dù mới chỉ gặp hai lần. của mình, thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi
Theo không một người đàn ông vừa nghèo, vừa xấu, không thị vẫn còn lòng tự trọng. Bây giờ, Thị là vợ của Tràng, Thị
có chút hứa hẹn nào về tương lai. bảo với Tràng: “Hoang nó vừa chứ” khi anh cu Tràng vui vẻ
khoe vừa mua hai hào dầu, câu nói cụt lủn nhưng lại rất đủ
Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò...”, Thị đầy, đủ đầy tình cảm, đủ đầy trách nhiệm, đủ đầy cảm xúc,
bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói một câu nói thực sự đủ đầy của người phụ nữ mà bây giờ
với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị Tràng gọi là vợ.
“liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần
sau, Thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Thị xuất hiện với Bước chân về nhà chồng, nhìn thấy gia cảnh gieo neo trước
bộ dạng cứ gây ám ảnh mãi trong tâm trí người đọc: “tay vân mắt, thị nén một tiếng thở dài, thất vọng. Tiếng thở dài – chi
vê tà áo đã rách bợt”, thân hình tiều tụy, khổ sở “thị rách tiết thật tinh tế mà Kim Lân đã lựa chọn để đưa vào trong tác
quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn phẩm của mình, để thể hiện sự nhạy cảm, sự tinh tế trong
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Dưới chân từng thái độ cử chỉ của nhân vật Thị. Thị không muốn Tràng
Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là biết được sự thất vọng của mình, thị hiểu rằng đối với một
“điêu”, "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy người đàn ông “lòng tự trọng về gia cảnh” rất quan trọng.
Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng Chính vì vậy, dẫu có thất vọng bao nhiêu, người phụ ấy cũng
hoáy” của Thị tức thì sáng lên. Dường như cái đói đã làm thị nén hết để lại trong lòng.
trở nên chao chát, đanh đá, liều lĩnh, đánh mất lòng tự trọng,
Vào đến trong nhà, thị đã được trả lại tất cả những gì là Trong bữa cơm ngày đói, được mẹ chồng đãi món “chè
khiêm nhường, ý tứ, e dè của một nàng dâu nông thôn: chỉ khoán” “ngon đáo để”. Thị cũng nén cảm xúc của mình lại dù
dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết ngượng nghịu, món “chè khoán” thực chất là món cháo cám rất đắng, chát,
“tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của Thị khi mới về nhà khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng.
chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi nửa Thị bây giờ, đã là một người vợ, một cô con dâu đảm đang,
vời. Đó cũng chính là tâm thế của Thị lúc bấy giờ, một tư thế đúng mực, có một gia đình hạnh phúc, yên bình. Thị hướng
đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,... nỗi tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là
buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.
người vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn
nén tất cả nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi
được, vì thất vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên trong tâm trí của Tràng. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ
tâm Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.
trạng của người đàn bà lúc này đang rối bời đến bội phần.
Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần Không tốn quá nhiều giấy mực, chỉ bằng những chi tiết ngắn
thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng thương: gọn nhưng cũng thật đắt giá, Kim Lân đã xây dựng thành
“cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Nghe bà cụ Tứ công nhân vật người vợ nhặt. Đó là hình ảnh của một người
nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội nghiệp thế nhưng trong tâm
Thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, sức sống tiềm tàng
một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở bên bờ vực
không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thẳm. Nhân vật này cũng là một trong những nhân vật biểu
thương bao! tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam.
Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái Thị đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề
“liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no
lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san
chồng: “... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách
trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với
cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”... Cũng như bà cụ
vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư
dần, Thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn
thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người
phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng
nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim
Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự
đổi đời của vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Sáng hôm sau,
nàng dâu mới rất biết ý tứ. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét
tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh
phúc. Thị đã thay đổi hoàn toàn qua điểm nhìn của Tràng:
“Tràng nom thị hôm nay khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu đúng mực...” Tiếng chổi quét sân của Thị "kêu sàn
sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng
Thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm
thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”,
Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân
lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc
cho mẹ con Tràng.
7. Nhân vật bà cụ Tứ: - Sáng hôm sau, khi mới ngủ dậy, hạnh phúc của con làm bà
a. Lai lịch, ngoại hình: vui hơn, hi vọng hơn, bà “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
Bà cụ Tứ hiện lên qua ngòi bút miêu tả chân thực của nhà văn thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà
Kim Lân. Đầu tiên là tiếng ho húng hắng, dáng người lọng xăm xăm quét dọn, ra sức thu xếp căn nhà cho quang quẻ với
khọng, miệng lẩm bẩm, đôi mắt nhấp nháy. Hình ảnh ấy gợi hi vọng cuộc đời có thể khấm khá hơn.
lên chân dung một người mẹ nông dân già yếu, nghèo khổ - Trong bữa ăn ngày đói, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung
nhưng thuần hậu và chất phác. sướng về sau này. Bà bàn với con chuyện nuôi gà rồi ngoảnh
b. Diễn biến tâm trạng: lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Chính bà lão gần đất xa trời
- Ban đầu khi trở về nhà, bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một đang tìm cách nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng cho các
người phụ nữ lạ mặt xuất hiện trong nhà mình: “Quái lạ, sao con.
lại có người đàn bà nào trong đó nhỉ? Người đàn bà nào lại - Nhưng niềm vui của bà cụ thật tội nghiệp khi miếng cháo
đứng ngay đầugiường thằng con mình thế kia? Sao lại chào cám trở nên đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Lúc này cái đen
mình bằng u? Là thế nào nhỉ?...” Trước sự bất ngờ, trong tối của hiện tại, cái mờ mịt của tương lai trở nên rõ rệt hơn
lòng người mẹ già đang ngổnngang những suy nghĩ, thắc bao giờ hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui cũng tan tành chỉ
mắc, băn khoăn. Bà lão không tin vàocảm giác của mình:“Bà trong chốc lát.
lão hấp háy cặp mắt đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt - Sau vị cháo cám đắng chát ấy còn là âm thanh dồn dập của
mình nhoèn ra thì phải”. Nhưng thực sự thì mắt bà không tiếng trống thúc thuế từ đình làng dội về, tiếng của đàn quạ
nhoèn, bà cũng không già cả điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ bay vù lên bên ngoài bãi chợ. Chỉ còn lại những tín hiệu của
ban đầu. Bà chỉ chưa bao giờ hình dung đến việc có ngày bà cái đói và cái chết ngày càng dữ dội, kéo dài. Lúc này, lời nói
lại được đón con dâu trong tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp thế của bà cụ Tứ như bật ra từ một tiếng thở dài hay một tiếng
này. rên: “Đằng thì nó bắt giồng đay, ....để các con không biết là
- Đến khi đã hiểu ra mọi chuyện, trong lòng bà chợt trào lên mình lo, mình buồn”.
biết bao nỗi niềm, là sự tủi hờn, là cảm xúc vừa mừng, vừa lo.
Bà lão cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo ấy vừa hiểu ra Khái quát
biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa xót xa, xót xa cho số Tình cảm của bà cụ Tứ dành cho những đứa con của mình là
kiếp của con mình, xót xa cho cô con dâu ngày đầu về nhà tình mẫu tử sâu nặng, thể hiện đạo lý tốt đẹp của con người
chồng. Nhìn người đàn bà kia, bà nghĩ về cuộc đời bất hạnh Việt Nam, sự cưu mang, che chở, sống nhân ái với nhau. Đây
của mình, giây phút ấy dường như là giây phút bà cảm thấy cũng là một nhân vật điển hình trong tuyến nhân vật của Kim
thật đỗi xót xa. Lân, mặc dù sống trong khổ đau và bất hạnh, nhưng vẫn luôn
- Hạnh phúc của con trai, khiến cho gương mặt của người mẹ hướng mình về ánh sáng, về sự lạc quan và tin tưởng vào
già khổ hạnh cũng rạng rỡ hẳn lên. Thế nhưng, sau sự hạnh hạnh phúc trong cuộc đời nhất định sẽ tới. Nhân vật bà cụ Tứ
phúc là là nỗi buồn tủi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là cũng là một trong những nhân vật điển hình, tiêu biểu cho
lúc nhà “ăn nên làm nổi” thôi thì bổn phận bà làm mẹ đã hình ảnh của người mẹ Việt Nam, thương yêu con hết mực,
chẳng lo gì được cho con... Bã nghĩ: “Người ta có gặp bước sẵn sàng hy sinh tất cả vì con của mình.
khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình mà con mình
cũng mới lấy được vợ”. Biết bao nhiêu suy nghĩ, đã tự an ủi
và trấn an mình nhưng biết bao âu lo trong lòng người mẹ già
vẫn cứ canh cánh. Những trăn trở ấy có căn nguyên bắt đầu từ
tình thương của người mẹ dành cho con của mình: “Biết
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?”
- Nhưng rồi, sau tất cả, tấm lòng nhân hậu của người mẹ già
vẫn luôn rộng mở cho những đứa con của mình. “Ừ thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng
lòng”. Lời nói giản dị, chân chất của một người mẹ hiền cũng
là minh chứng cho sự bằng lòng của bà dành cho hôn sự của
con. Bà nhìn cô con dâu, bằng tất cả sự xót thương chứ không
hề coi thường. Bà nghĩ đến việc phải có dăm ba mâm cho
phải lễ. Trân trọng lễ nghĩa, cũng là sự trân trọng nàng dâu
mới bằng tất cả sự khoan dung của một người mẹ nghèo.
Phân tích chi tiết: vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó
là sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, có lẽ vẻ đẹp của “sức sống đơn sơ như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng
vừa đắng cay vừa đớn đau nhưng lại lóe lên những tia sáng đạo không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng
đức và danh dự” mà Kim Lân để cho người đọc cảm động nhất “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu
chính là hình tượng nhân vật bà cụ Tứ – một người mẹ nông dân ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa cũng không giận dữ lại càng
chịu nhiều đắng cay thiệt thòi trong cuộc sống nhưng lại tiêu không vui mừng mà lòng
biểu cho vẻ đẹp tâm hồn Việt với tấm lòng nhân ái, bao dung. bà càng trở nên trăm mối tơ vò. Bà vừa hờn tủi, xót xa cho mình
Trong thời khắc khủng khiếp của nạn đói mà nói như thi sĩ Bàng lại vừa thương con thắt lòng.
Bá Lân: “Trên thân mình còn dính một chút da /Dù chưa chết đã
bốc mùi tử khí”. Gia cảnh bà cụ Tứ cũng chẳng khá gì, hai mẹ Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Trong lòng bà
con chỉ sống dựa vào đồng phu xe ít ỏi của Tràng; cuộc sống chợt trào lên biết bao nỗi niềm, là sự tủi hờn, là cảm xúc vừa
đang ngấp nghé bên bờ vực của cái chết. Việc con trai bà lấy vợ mừng, vừa lo. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi đầu” mang đến cho
quả thật là khó tin, điều này gây nên sự xáo trộn rất lớn trong người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó
tâm trí người mẹ. Miêu tả quá trình thay đổi tâm trạng của người vừa uất nghẹn, vừa xót xa, vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm
mẹ ngòi bút Kim Lân đã làm cho người đọc xúc động mãnh liệt. ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy mình
Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện qua ngòi bút miêu tả chân thực chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. Bởi cuộc đời của một
của Kim Lân với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng người mẹ không chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có
lực kiệt. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều trách nhiệm gây dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn
hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng” của bà bà chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả
đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa, chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
chồng và con gái đều đã chết. Bà ở vậy nuôi con, gia cảnh thì sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì ...”. Nhà văn đã
nghèo khổ. Cái được gọi là nhà thực chất lại là túp lều rách nát bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là
nằm bên “mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Tràng – những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà ở đó sự tủi thân tủi
anh con trai của bà không được như con nhà người. Tràng vụng phận dâng trào hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để nhân vật của
về, gàn dở lại thêm xấu xí thô kệch. mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai
dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt cơ cực của cuộc đời và
Ban đầu khi trở về nhà, bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một cũng là những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc
người phụ nữ lạ mặt xuất hiện trong nhà mình. Chính sự xuất quá nhiều.
hiện của người đàn bà ấy làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao
tâm trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo. Trước hết Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương.
là tâm lý ngạc nhiên. Xót thương vì “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên vì Bà thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới
người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì cũng phải cưới một cách
“đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”. “Phấp phỏng” có hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa
nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón là bà khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của
đợi mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra rất gần gũi và
“chợn” thì anh ta đi thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”,
chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của mà “lòng đầy xót thương”. Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất nhiều
bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong. mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ
Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và “mang tội theo trai” (Kim Lân). Biết bao nhiêu suy nghĩ, đã tự
anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người an ủi và trấn an mình nhưng biết bao âu lo trong lòng người mẹ
đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi già vẫn cứ canh cánh. Những trăn trở ấy có căn nguyên bắt đầu
vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà nào đứng từ tình thương của người mẹ dành cho con của mình: “Biết
trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng U? không?”
Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc
nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho
xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng thực sự mà cuộc tình duyên ấy: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời với nhau u cũng mừng lòng”. Ca dao Việt Nam có câu:
này, bà là người giàu kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên,
muốn thành thất thành gia thì không người mẹ nào lại không “Trồng cây những muốn cây xanh
nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta Nuôi con những muốn con thành thất gia”
thấy nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính
Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm
“mừng”! Phải chăng ám ảnh về nạn đói đã lấn át đi niềm vui của ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
mẹ? Đó cũng là câu nói chân thành chứa đựng những tình cảm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả
sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia đình đã thiêng liêng nhà đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có
lại càng thiêng liêng hơn. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của sơn hào hải vị, không của ngon vật lạ mà chỉ có những gì thê
tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo...
dành cho người con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm Nhưng sự thiếu thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưngnhà mình nghèo, cũng thần bởi cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên mới, một
chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng
mày lấy nhau lúc này u thương quá...”. Lời nói giản dị, chân Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ
chất của một người mẹ hiền cũng là minh chứng cho sự bằng đã thêm một lần truyền động lực sống cho các con. Bao trùm
lòng của bà dành cho hôn sự của con. Bà nhìn cô con dâu, bằng không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu
tất cả sự xót thương chứ không hề coi thường. Tấm lòng nhân ái từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà
bao la và cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao! vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên
những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái
Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn
nỗi lo lắng. Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết cũng chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này
chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn chứng tỏ người mẹ ấy rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai
còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông dân
không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện
cô con gái út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà. Bằng đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa ăn như một luồng sinh khí
tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn không cho phép mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền ta mua
nhân vật của mình tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần lấy đôi gà... Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn
cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng gà cho mà xem...”. Từ “đôi gà”, thành “đàn gà” là sự lạc quan,
son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Tục niềm tin mãnh liệt của người mẹ vào tương lai.Chính bà lão gần
ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân đất xa trời đang tìm cách nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng
khi viết truyện ngắn này đã nung nấu: “Khi viết về con người cho các con. Bà tin vào sự sinh sôi sẽ lấn át sự hủy diệt, sự sống
năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng
chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ son này, rồi họ cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để
nghĩ đến cái sống. Đã sống thì phải sống cho ra cuộc sống con sinh con đàn cháu đống cho giống nòi Việt Nam mãi mãi xanh
người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương
vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba lai, tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và
đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào cuộc đời của Tràng
của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính và người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ vượt qua “ranh
triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên tia hi vọng và làm giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên
ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí cái nền u ám của nạn đói.
nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua
nạn đói. Nhưng niềm vui của bà cụ thật tội nghiệp khi miếng cháo cám
trở nên đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Lúc này cái đen tối của
Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi hiện tại, cái mờ mịt của tương lai trở nên rõ rệt hơn bao giờ
vợ chồng son. Sáng hôm sau, khi mới ngủ dậy, hạnh phúc của hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui cũng tan tành chỉ trong chốc
con làm bà vui hơn, hi vọng hơn. Bà dậy sớm cùng con dâu lát. Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để
thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui đãi nàng dâu mới đã khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt
hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào bởi “xóm ta
Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày khối nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất
thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó “Bà mẹ xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm tự hào ấy sao nghe chân
Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu
beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét chuyện làm ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa
tước nhà cửa”. của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim Lân khẳng
định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ
nghĩ đến con đường sống”. Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa
sáng ở đây.
Sau vị cháo cám đắng chát ấy còn là âm thanh dồn dập của tiếng + Con người trong cảnh đói: Giữa bối cảnh đó, một cô gái rách
trống thúc thuế từ đình làng dội về, tiếng của đàn quạ bay vù lên quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, mặt lưỡi cày, chỉ qua mấy câu đùa
bên ngoài bãi chợ. Chỉ còn lại những tín hiệu của cái đói và cái cợt, đã sẵn sàng sà xuống ăn một chập bốn đĩa bánh đúc, rồi sẵn
chết ngày càng dữ dội, kéo dài. Lúc này, lời nói của bà cụ Tứ sàng theo một người đàn ông xa lạ, hòng thoát khỏi cảnh chết
như bật ra từ một tiếng thở dài hay một tiếng rên: “Đằng thì nó đói. Anh chàng ngụ cư nghèo khổ thì “nhặt” được vợ - đặc biệt
bắt giồng đay, ....để các con không biết là mình lo, mình là bữa cơm ngày đói - đã phản ánh số phận thê thảm của con
buồn.” người.
Tình cảm của bà cụ Tứ dành cho những đứa con của mình là - Sự đau khổ, căm hờn và phản kháng của nhân dân.
tình mẫu tử sâu nặng, thể hiện đạo lý tốt đẹp của con người Việt + Hình ảnh thê lương của nạn đói 1945 đã tố cáo tội ác tày trời
Nam, sự cưu mang, che chở, sống nhân ái với nhau. Đây cũng là của bọn phát xít Nhật. Chúng đã đẩy nhân dân ta vào vòng cùng
một nhân vật điển hình trong tuyến nhân vật của Kim Lân, mặc khổ, chết chóc.
dù sống trong khổ đau và bất hạnh, nhưng vẫn luôn hướng mình + Tâm trạng của quần chúng trước cơn bão tố của lịch sử được
về ánh sáng, về sự lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc trong bộc lộ. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu: “Đằng thì nó bắt
cuộc đời nhất định sẽ tới. Nhân vật bà cụ Tứ cũng là một trong giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.
những nhân vật điển hình, tiêu biểu cho hình ảnh của người mẹ + Trong đoạn cuối truyện, khi người con dâu nghe tiếng trống
Việt Nam, thương yêu con hết mực, sẵn sàng hy sinh tất cả vì thúc thuế thì bảo: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
con của mình. không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc
của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”.
8. Chi tiết kết thúc truyện: Giá trị nhân đạo:
Truyện ngắn kết thúc với hình ảnh đám người đói và là cờ đỏ - Tính nhân bản của truyện: Bản thân bức tranh hiện thực trên đã
hiện lên trong tâm trí của Tràng sau lời gợi ý của nhân vật người có giá trị nhân đạo. Con người luôn khao khát sống, khao khát
vợ nhặt. Lòng Tràng lúc bấy giờ có chút tiếc nuối vẩn vơ, khó tình thương yêu, hạnh phúc và trong bất kì tình huống nào cũng
hiểu. tin vào cuộc sống, hi vọng vào tương lai. Tính nhân bản này
Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt”: được thể hiện qua diễn biến tâm lí và tình cảm của các nhân vật
- Ý nghĩa nội dung: trong truyện.
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí - Tình cảm thương yêu, tấm lòng cưu mang đùm bọc và niềm tin
Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những ở tương lai của những người khốn khổ, tiếng nói đồng cảm, trân
tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trọng của nhà văn:
trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ. + Người con dâu: từ chỗ bất chấp sĩ diện, ăn nói chỏng lỏn...,
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim dần dần trở thành con người đúng mực với chồng và mẹ chồng.
Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết + Tràng “nhặt” được vợ từ chỗ liều, dần dần anh có những suy
của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi nghĩ nghiêm túc đầy trách nhiệm. Đây là sự biến đổi tâm lí một
sáng. anh chàng thô vụng, chuyên làm trò cười cho trẻ con đến chỗ trở
- Ý nghĩa nghệ thuật: thành một con người thực sự nên người.
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của + Đặc biệt là diễn biến tâm trạng của một người mẹ nghèo rất
hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì bao dung và giàu đức hi sinh: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện. thương quá” và biểu hiện sự “mừng lòng”, nói toàn chuyện vui
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích trong “bữa cơm” ngày đói. Ngay cả niềm tin mang tính chất kinh
cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành nghiệm chủ nghĩa của bà cũng khiến người đọc phải cảm động.
khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán. Đó là niềm tin vào triết lí dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba
đời”, “sông có khúc người có lúc”.
9. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm: + Tràng thì nghĩ đến xe thóc của Liên đoàn, trong óc... vẫn
Giá trị hiện thực: thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Tác giả đã khắc
- Nạn đói khủng khiếp năm 1945 được tái hiện cụ thể. họa trạng thái tâm lí cá nhân bị dồn ép vào sự thay đổi số phận
+ Cảnh đói: Cái đói đã làm cho xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ của dân tộc.
đây càng xơ xác, thê lương. Cái đói đã làm cho bọn trẻ con cứ - Vẻ đẹp của từng nhân vật được toát lên qua những trang viết
ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích. Cái đói của Kim Lân. Vượt qua tất cả những khó khăn, những tủi hờn,
càng lan rộng hoành hành, khiến nhiều người xanh xám như khổ cực, những người lao động trong xã hội cũ vẫn nương tựa
những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Cảnh tang vào nhau để mà sống, mà hy vọng. “Vợ nhặt” cũng chính là
tóc bao trùm lên xóm ngụ cư: người chết tiếng nói đồng cảm, trân trọng của nhà văn Kim Lân với những
như ngả rạ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi người nông dân trước cách mạng.
gây của xác người.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:
MB1: KB1:
Ai đó đã từng nói rằng: “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng Truyện ngắn “Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thực sự đã để
tối sẽ ngả lại sau lưng” bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải: lại rất nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc bởi việc xây dựng
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ được 1 tình huống truyện hợp lý, chan chứa tình đời, tình
những gian khổ, hy sinh. Ở đời, không có con đường cùng, người. Nhắc nhớ tới “Vợ nhặt" xin được mạn phép sử dụng
chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh những dòng văn của nhà văn Nguyễn Khải để thay lời kết cho
để vượt qua những ranh giới đó”. Đọc “Vợ nhặt” của nhà bài viết này. Có lẽ, đây cũng chính là những gì mà bản thân
văn Kim Lân , ta thêm một lần nữa hiểu sâu sắc hơn về chân Kim Lân thật sự muốn trải lòng: “Trên đời không có con
lý này. đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có
đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới đó”.
MB2:
Trong nền văn học Việt Nam, Kim Lân được đánh giá là nhà KB2:
văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với
và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” như Kim
Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất Lân đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng về nhân
đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” vật anh Cu Tràng. Đi bao biết bao những điều bất hạnh, đói
là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện khổ, khó khăn ở trên đời, cuối cùng nhân vật này cũng đã neo
thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người đậu tới bến bờ của hạnh phúc. Có điều gì quý giá và đáng trân
nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành quý hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm
công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai trong những trang sách Kim Lân.
đoạn đó.
KB3:
MB3: Những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam còn giữ lại,
Còn nhớ sinh thời tác giả của Bỉ vỏ - Nhà văn Nguyên Hồng tình yêu, tình người, tình đời là thứ ánh sáng đẹp đẽ vô cùng
từng “phán” về đồng nghiệp của mình rằng: “Kim Lân là nhà giúp cho người vợ nhặt trở nên lấp lánh đến vậy. Dẫu có chút
văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu kiệm lời, dẫu có chút đối đãi không tốt, nhưng cuối cùng,
nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn”. Quả thật không chê Kim Lân vẫn hoàn thành sứ mệnh đưa nhân vật của mình cập
vào đâu được lời “truyền thần” ấy của nhà văn Nguyên bến hạnh phúc. Ngày mai của người đàn bà này sẽ ra sao, tôi
Hồng! Sự nghiệp và những quan niệm về văn chương của không phân vân nhiều, bởi tôi biết rằng, phía trước của những
Kim Lân qua những tác phẩm của ông đã để lại rất nhiều con người nghèo khổ này chắc chắn sẽ là ánh sáng, ánh sáng
những ấn tượng đẹp trong lòng độc giả, và càng chứng minh của niềm tin, của hạnh phúc.
nhận định của nhà văn Nguyên Hồng không thể bỏ đi từ nào
được. Đọc “Vợ nhặt” tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng KB4:
tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và thấm nhuần hơn điều Hình ảnh bà Cụ Tứ là một trong những hình tượng để lại
này. nhiều cảm xúc trong lòng đọc giả. Đi qua biết bao nhiêu khổ
sở, bất hạnh trong cuộc đời. Người mẹ nghèo ấy cuối cùng
vẫn là người nói những câu chuyện vui, tin tưởng vào tương
lai của các con và chu đáo cho những tháng ngày còn vất vả.
Trong đôi mắt của người mẹ nghèo, biết bao nhiêu những
tình cảm yêu thương con còn ở lại và bóng tối tan đi. Xin
được mượn một lời thơ của nhà thơ Chế Lan Viên thay lời kết
cho bài viết này, cũng là những tâm tư đọc giả như tôi còn
bâng khuâng mãi:
Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện
tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thấm nhuần tư tưởng từ
gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và còn sớm tham
gia cách mạng nên đề tài mà ông thường đưa và những tác
phẩm của mình chính là về đất nước và con người Việt
Nam. Những trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sức hấp
dẫn bởi sự tài hoa, uyên bác, vừa đĩnh đạc truyền thống
mà vẫn hiện đại, trang trọng, trữ tình, luôn có sự kết hợp
hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng giữa
chất chính luận, triết luận và những cảm xúc nồng nàn
mãnh liệt của con tim. Gần 10 năm kháng chiến chống Mỹ
đã có rất nhiều nhà thơ ghi được dấu ấn trong nền văn học
Việt Nam và để rồi mai sau có người từng nhận định: “Bên
cạnh một Phạm Tiến Duật sôi nổi, trẻ trung phong trần với
những lối thơ lấm bụi Trường Sơn đầy chất phong sương.
Một Nguyễn Duy mộc mạc chân chất mà đằm thắm ngọt ngào
với những âm điệu lục bát ca dao vọng về... Là một Nguyễn
Khoa Điềm tài hoa uyên bác, truyền thống hiện đại không ồn
ào tinh nghịch, lãng đãng bất chợt. Thơ Nguyễn Khoa Điềm
chín trong cả cảm xúc và suy tư. Vốn văn hóa của người trí
thức, sự trải nghiệm của người lính và mẫn cảm của một nhà
thơ đã làm nên một Nguyễn Khoa Điềm đĩnh đạc nghiêm cẩn
trang trọng mà rất đỗi tinh tế trữ tình”.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự đóng góp
Vọng Phu của những con người bình dị, vô danh trong việc làm nên Đất
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Nước muôn đời. Nhà thơ chuyển sang giọng điệu tâm tình với
..... “em” mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta:
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...” “Em ơi em
Hãy nhìn từ rất xa
Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
đẫm những huyền thoại, mỗi hiện tượng văn học dân gian đều
nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó “Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là
những ý nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tỏ tình
máu nhân dân trong quá trình tạo nên Đất Nước. Mỗi tấc đất, mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng suy tư. Với lối tâm tình,
mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của
chứa đựng những ước mơ của con người. Đằng sau tình yêu với dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, bốn nghìn năm
Đất Nước, nhà thơ nhận ra không gian địa lý không còn là hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc
những hình thể vật chất thuần túy, những sự vật vô tri vô giác ngoại xâm. Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã
mà đó là “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. nhận thức được một sự thật đó là: người làm nên lịch sử không
Trong cái nhìn của nhà thơ, hình ảnh núi sông của tổ quốc bỗng chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô
trở nên thiêng liêng vô cùng. Đọc những truyền thuyết cổ tích danh bình dị:
huyền thoại nhằm giải thích hình dáng, tên gọi của danh lam
thắng cảnh, ta ngỡ như đó chỉ là một cách mỹ lệ hóa núi sông, “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
huyền thoại hóa một địa danh. Nhưng với cái nhìn của Nguyễn ...
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Khoa Điềm – người đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử,
văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức sống của
Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to
bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn
anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”. Nhưng hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. Chủ đề về
cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn
dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã “sống và chết, học Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài
không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “làm ra thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi...Nhưng, có thể nói
Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò
nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ
hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Những nhớ và sâu sắc. Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi
con người làm nên đất nước chính là những con người góp phần trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang
bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị vô danh. Họ là lún sâu vào lối sống ngoại lai. Từ đó, đoạn thơ đã làm sống lại
những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta. Viết về đề
có giặc ngoại xâm thì chính họ trở thành những người anh hùng tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa
cứu nước. “Khi có giặc người con trai ra trận/Người con gái trở Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận
về nuôi cái cùng con” đã thể hiện sự chung sức, chung lòng để thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp
đánh giặc cứu nước, và khi cần thì “giặc đến nhà đàn bà cũng của đất nước ở góc độ địa lý, lịch sử, văn hóa càng gợi lên lòng
đánh”. Nhà thơ đã khẳng định truyền thống đánh giặc ngoại xâm yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
của dân tộc Việt Nam: sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng và Nếu chỉ dừng lại ở phương diện lịch sử hay phương diện địa lý
có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đó là truyền thống được phát huy thì chưa thể có một khái niệm hoàn chỉnh về đất nước. Do đó tư
từ đời này sang đời khác. Chính bằng sự đóng góp một cách tự tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên bình diện
nhiên đó mà họ đã làm nên lịch sử - truyền thống lâu đời của đất thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn
nước. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không Khoa Điềm không khai thác khía cạnh văn hóa theo hướng liệt
nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị anh kê những danh nhân: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu .... mà tác giả đã tìm đến với những giá trị văn hóa của nhân dân,
dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường đó là vẻ đẹp của tâm hồn người Việt:
trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước:
“Nhiều người đã trở thành anh hùng “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
... Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Hình ảnh “người người lớp lớp”, “bốn nghìn lớp người” chính là Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
biểu tượng cho đông đảo tầng lớp nhân dân kế tiếp nhau. Họ đều Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
mang những đức tính chung của con người lao động như sự cần
cù, chất phác và khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng tự nguyện Nhân dân đã có công bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau
đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Người con trai ra trận, những giá trị vật chất, tinh thần, giúp hình thành và gìn giữ
người con gái ở hậu phương cũng góp sức lực, đảm đang nuôi những giá trị đáng quý của đất nước. Điệp từ “họ” cùng với cách
con để người chồng yên lòng đánh giặc, nhưng khi cần thì giặc nói: “họ giữ – họ chuyền – họ truyền – họ gánh...” cho thấy
đến nhà đàn bà cũng đánh, đó là hành động tất yếu để bảo vệ được sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất
mái nhà và bảo vệ quê hương. Những con người anh hùng vô nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta
danh ấy có một cuộc sống thật giản dị, chết bình tâm, cống hiến trồng qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm
và hy sinh một cách tự nguyện, vô tư, thầm lặng cho Đất Nước. bao căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con
Mặc dù không ai nhớ mặt đặt tên nhưng công lao của họ thật to cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang
lớn và đầy ý nghĩa, chính họ đã làm ra Đất Nước. Bằng những đến những giá trị tinh thần quý báu: họ “truyền giọng điệu mình
câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng nhà thơ đã cho ta thấy một sự cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, họ để lại phong tục,
khẳng định chắc chắn và chặt chẽ về tư tưởng “Đất Nước” của tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
nhân dân. Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã
khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
làng”...cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.”
góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa,
(Lưu Quang Vũ)
văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo
dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân. Không
những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm,
đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu
của mình. Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự
sự vừa trữ tình...đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ
Cội nguồn văn hóa chưa phải là những gì thiêng liêng, cao cả, nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu
mà trong tư tưởng của nhà thơ, cội nguồn văn hóa trước tiên bắt nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu
nguồn từ chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, từ biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc
những gì giản dị và thân thuộc nhất như: “giọng điệu”, “tên xã sống qua trí tưởng tượng bay bổng
tên làng”... của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân
dân với tình yêu thương, với sự
Không chỉ vậy, nhân dân còn tạo dựng chủ quyền và truyền
lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm
cho thế hệ sau truyền thống yêu nước và đánh giặc. Nhân dân
do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và
là những người không tiếc máu xương, sẵn sàng đứng lên bảo
có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách
vệ đất nước trước những biến động lịch sử và hiểm họa xâm
đậm nét nhất. Và khi nói đến “Đất
lăng:
nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm nguồn phong phú đẹp đẽ của văn
Có nội thù thì vùng lên đánh bại” hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó
Dân ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ bao đời nay, trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn
hết giặc Tàu 1000 năm lại đến giặc Tây 100 năm. Ta lại lật đổ lọc ba câu để nói
chế độ phong kiến, đánh đuổi phát xít Nhật để đưa nước Việt về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân
Nam đi đến độc lập thống nhất. Và hôm nay đây, trong chính dân, dân tộc:
thời khắc bản trường ca này ra đời, ta đang chống lại đế quốc
Mỹ xâm lược, lời thơ lại càng giục giã và khí thế hơn. Và sức “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
mạnh nhân dân sẽ là cơn sóng lớn để nhấn chìm bè lũ bán Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
nước và cướp nước ấy: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
“Sức nhân dân xẻ núi lấp sông
Mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”.
Con đường mở qua lòng dân rộng mở Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba
Đường vươn dài, dân trải tấm lòng che...” phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm
(Nguyễn Trọng Tạo) nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con
người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao:
Trận chiến ấy sẽ chiến thắng trong nay mai để mãi mãi:
“Yêu em từ thuở trong nôi
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng
của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời
thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã
hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì
cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng
đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là
Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến
và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm
một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả
của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những
nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về mối tình từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
cái
sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ
hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì
hơn ai hết,
Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại.
Mà đất nước của “ca dao thần
thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ
tích, ngọt ngào như ca dao, như
4. Khúc vĩ thanh của bản trường ca: 2. “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Mỗi câu thơ như sợi tơ dài
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu Rút ra từ tháng ngày bom đạn."
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát ( Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh )
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 3. “Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
- Là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
trong những câu dân ca, đặc biệt là những câu dân ca trên
Hơn cả những vì sao cô độc giữa trời”
sông nước. Tiếng hát của những dòng sông ấy được cất lên từ
(Không phải truyền thuyết - Thanh Thảo)
chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó gợi lên những
vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời gian.
4. “Tôi yêu đất nước này chân thật
Phân tích chi tiết: Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi tâm sự về Và yêu tôi đã biết làm người
chương thơ “Đất Nước” đã đặc biệt nhắc nhớ về một hình ảnh Cứ trông đất nước mình thống nhất"
mà ông rất tâm đắc – hình ảnh dòng sông: “Nước Việt có (Trần Vàng Sao )
nhiều sông. Mỗi con sông chảy qua một vùng châu thổ đều
kiến tạo cùng với nó một bản sắc văn hóa góp phần làm đa 5. “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
dạng thêm văn hóa chung của đất nước”. Để rồi từ sự chiêm Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
nghiệm đó, tác giả đưa bạn đọc đến với những dòng chảy của Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
tự nhiên hay cũng chính là dòng chảy của văn hóa, phong tục Của triệu người yêu dấu gian lao”...
Việt Nam: ( Xuân Diệu )
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu 6. “Trên đất nước nghìn năm những nông dân lại tập cấy cày
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Nhà bác học phải nghĩ suy từ ba sào chua mặn
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Năm tấn thóc để làm thép gang mặt trận
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cũng là bài ca theo suốt những đoàn quân”
( Thời đại Hồ Chí Minh - Nguyễn Khoa Điềm )
Ý thơ là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước
trong những câu dân ca, đặc biệt là những câu dân ca trên 7. “Những mùa đi thăm thẳm
sông nước, tiếng hát của những dòng sông ấy đã được cất lên Trong mông lung chiều tà
từ chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó gợi lên Có bao chàng trai trẻ
những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời gian. Chắt Cứ lặng thinh mà già”
lọc những “hạt cườm” tinh túy từ vẻ đẹp tâm hồn con người ( Đỉnh núi - Trần Đăng Khoa )
Việt Nam, từ dọc dài thời gian lịch sử, bề rộng không gian địa
lý và cả bề sâu văn hóa phong tục, lối sống dân tộc, Nguyễn 8.“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Khoa Điềm đã xâu lại thành “chuỗi cườm” lung linh, óng Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
ánh: đất nước muôn đời. Chương thơ “Đất Nước” đã khơi Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
gợi, nhắc nhớ người đọc một lần nữa suy tư về đất nước, một Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”
đề tài không mới nhưng lại được khai thác ở những khía cạnh (Tổ quốc nhìn từ biển - Lê Việt Chiến)
bình dị mà sâu sắc, bởi đôi mắt khám phá và chiêm nghiệm
vô cùng mới mẻ của ông vua thể loại trường ca – nhà thơ 9. “Nước chúng ta
Nguyễn Khoa Điềm. Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
IV. DẪN CHỨNG LIÊN HỆ: Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
1. “Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi"
( Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm )
V-MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO: 2. Kết bài:
2. Cảm hứng về đất nước, con người đã trở thành mạch chủ
lưu trên dòng sông văn học 1945 - 1975. Mạch chảy đó luôn
2. Trích đoạn “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát
âm vang niềm tự hào ngợi ca, tôn vinh tạo ra khúc tráng ca về
vọng” là sự lý giải hoàn hảo cho những thắc mắc của đọc giả
Tổ quốc. Để rồi có một người nghệ sĩ đã từng viết:
về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?”.
“Nhưng lạ lùng sao nhân dân ta thông minh Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi
Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì
Ta lớn lên với niềm tin chân thật....” thuộc về đất nước hay sao. Và những câu hỏi thắc mắc về quê
hương, đất nước mình vẫn còn là những điều bỏ ngỏ, để bạn
Đó là những vần thơ ca ngợi nhân dân đất nước thiết tha mà đọc không ngừng tìm kiếm những điều mới lạ ấy, sự thú vị ấy
Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong trường ca "Mặt đường khát trong thơ văn:
vọng". Giữa thời đạn bom, giữa thời máu lửa, khúc tráng ca
“Đất Nước” đã vang lên một cách hào sảng, chạm sâu vào trái “Quê hương là gì hở mẹ
tim của mỗi người con đất Việt. Đoạn trích là cái nhìn tin yêu Mà cô giáo dạy phải yêu
của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước được nhìn theo nhiều Quê hương là gì hả mẹ
khía cạnh, thăng trầm và biến đổi của lịch sử. “Đất Nước” là Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”
tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chứa đựng bao cảm xúc
đặc biệt của nhà thơ.
3. Hình tượng đất nước không phải lần đầu tiên xuất hiện,
3. Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về
nhưng cách lý giải về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại
một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không
đem tới cho bạn đọc sự thú vị đến bất ngờ. Đó là hình ảnh
có tổ, cái cây không có rễ”. Và ai đó cũng từng tự hỏi: “Có
của một đất nước gần gũi, dung dị, giống như hình ảnh của
mối tình nào nặng sâu hơn mối tình Tổ quốc?”. Đi tìm câu trả
những con người đã làm ra, dựng xây và phát triển - Nhân
lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với
dân. Tư tưởng “Đất Nước là của Nhân dân” cũng không phải
Nguyễn Đình Thi là hình ảnh một đất nước đau thương, căm
là tư tưởng lần đầu tiên xuất hiện trong nền văn học Việt
hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng.
Nam, nhưng đây lại là tác phẩm cho độc giả thấy được tư
Với Lê Anh Xuân là dáng đứng “Tổ quốc bay lên bát ngát
tưởng về đất nước của nhân dân chân thực và gần gũi nhất:
mùa xuân”. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp “Tổ quốc tôi như một
“Họ đã sống và chết
con tàu, mũi tàu rẽ sóng mũi Cà Mau”. Đặc biệt, vào cuối
Giản dị và bình tâm
năm 1971 từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn
Không ai nhớ mặt đặt tên
Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài đất nước
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước”
qua trích đoạn “Đất Nước” – trích trường ca “Mặt đường khát
vọng”.
Văn bản: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí xuất sắc nhất được
-Hoàng Phủ Ngọc Tường- viết tại Huế ngày 4/1/1981, có 3 phần. Trích đoạn SGK nằm
ở phần đầu của tác phẩm.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng tâm sự:
Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của đoạn trích
Thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông như là món quà nhỏ như sau:
thay cho một chút lòng thành. Đây là bút ký dài nhất và tâm
huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên ● Được viết tại Huế vào ngày 4/1/1981.
một dòng sông y như nó vốn có. Dòng sông của văn hóa, lịch ● Rút từ tập kí cùng tên xuất bản năm 1986 bày tỏ tình cảm
sử, huyền thoại... Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho của tác giả đối với quê hương, đất nước.
thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên
Những tâm tình của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về
ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ
"Ai đã đặt tên cho dòng sông"
đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động
làm thay đổi nó dù điều này không phải dễ... “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bút ký nổi tiếng của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nguồn cảm hứng để ông viết
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Hoàng Phủ Ngọc Tường
nên tác phẩm này chính là dòng sông Hương thơ mộng chảy
- Cuộc đời gắn bó thân thiết với xứ Huế. qua giữa lòng kinh thành Huế. Hãy nghe Hoàng Phủ Ngọc
- Từng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Tường tâm sự với người bạn văn Mai Văn Hoan về ngọn
Từ - Phong cách nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa nguồn xúc cảm cho bút ký thấm đẫm chất văn chương này.
khó chất nghệ thuật và chất trữ tình, vốn hiểu biết phong
a phú, lối hành văn mê đắm, tài hoa. Cho đến khi trở thành nhà văn, tôi có lợi thế là một nhà báo
- Viết nhiều và hay về Huế. trực tiếp tham gia kháng chiến. Suốt trong thời gian tham gia
kháng chiến, với nghề làm báo, tôi đã được đi đây đi đó trên
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thổn thức mà thốt lên rằng:
địa bàn hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị, được tiếp
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có
xúc nhiều với những con người đã sống trong lòng địch hoặc
lẽ không chỉ Chế Lan Viên mà có biết bao nghệ sĩ đã đưa vào
đã làm nên những chiến công. Suốt trong thời gian ấy, đế
tác phẩm của mình một “hồn nhớ” về mảnh đất đã để thương,
quốc Mỹ đã tung ra một sức mạnh bạo liệt nhất, quyết đè bẹp
để nhớ trong họ. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không ngoại
dân tộc ta; và ta cũng đối chọi lại bằng sức mạnh kiên quyết
lệ. Tuy quê gốc không phải ở Huế nhưng mảnh đất mẹ là nơi
nhất để tồn tại. Tôi đã được nghe, được thấy những sự việc,
sinh ra, lớn lên và trưởng thành, nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn.
những thông tin đáng giá nhất về cuộc chiến tranh Việt Nam.
Không ngại bày tỏ tình cảm của mình với xứ Huế thân
Như vậy, trong tôi đã hình thành được một thể loại văn học
thương, bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trong tập ký
gọi là bút ký. Bút ký là thể loại văn học đòi được tường thuật
cùng tên như một minh chứng cho tình cảm son sắt, nồng
lại thực tế đã xảy ra và rất gần với hiện thực cuộc sống. Khi
nhiệt mà tác giả dành cho nơi đây. Nét đặc sắc trong sáng tác
tôi quyết định chọn thể ký để viết văn thì cũng là lúc thể loại
của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất
văn học này đang bị “thất sủng”. Một số nhà phê bình có tên
trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng
tuổi viết bài công kích thể loại văn học này. Họ bảo rằng ký
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử,
không “phục vụ kịp thời” so với những mẩu tin báo chí hoặc
địa lý...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc
những bài phóng sự ; cũng không giàu tính truyền cảm và
tích, mê đắm và tài hoa.
tính điển hình so với truyện ngắn, tiểu thuyết. Nói tóm lại,
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: theo họ ký chỉ là một loại “văn chương thứ cấp”. Giữa lúc ấy
1. Hoàn cảnh ra đời: bỗng xuất hiện tác phẩm Một trận đánh của tác giả Nguyễn
Sinh - Vũ Kỳ Lân làm xôn xao dư luận. Tác giả đã mạnh dạn
- Tác phẩm được rút ra từ tập bút kí cùng tên được xuất bản thuật lại một trận đánh thất bại của quân ta - điều mà trước
năm 1986, gồm 8 bài viết về nhiều đề tài khác nhau: đây không ai nói đến. Nhưng chính từ thất bại mà họ đúc rút
+ Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ca được kinh nghiệm và cuối cùng họ đã chiến thắng. Tác phẩm
ngợi đất nước, con người Việt Nam: “Rừng hồi”, “Ai về này đã phần nào giải tỏa cho tôi: Phải viết theo cảm xúc chân
châu xưa”, “Đời rừng”, “Đứa con phù sa”,... thực của mình, không nên viết theo “mệnh lệnh”. Từ đó tôi
+ Có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà lựa chọn một cách viết bút ký riêng. Sau một vài phác thảo,
văn bộc lộ tấm lòng gắn bó với quê hương đất nước và có thể xem bút ký Như con sông từ nguồn ra biển là thành
niềm tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc, đặc công bước đầu của tôi và gắn chặt tôi với thể loại văn học
biệt là những bài kí viết về thiên nhiên và con người Huế: này.
“Hoa trái quanh ta”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”...
Về thiên bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tuyển 2. Nhận định về tác giả tác phẩm:
chọn vào chương trình Ngữ văn THPT, trong việc đi lại hằng
ngày, tôi có dịp tiếp xúc với sông Hương và thấy tận mắt 1. “Như một người đã chiêm nghiệm trong im lặng và trong
những biến ảo trên từng đoạn của nó. Tất cả có thể vẽ thành sương khói chỉ để giữ lại những nét đẹp sâu thẳm của thiên
một dòng sông nguyên vẹn nếu như chắp nối từng đoạn ấy nhiên, từ dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tôi đã
với nhau. Trước năm 1975, có một lần tôi đứng nhìn sông không ngần ngại gửi tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ lại đời
Hương trên cầu Trường Tiền. Mặt sông Hương bằng phẳng, mình bằng màu nước của dòng sông, nó xanh biếc và yên tĩnh
toả rộng ra và trôi vào bóng tối; có đôi chỗ phập phồng trong như một lẻ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đô.”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường - “Lời tạ từ gửi một dòng sông”)
làn gió nhẹ như một tà áo lụa và cứ trùng trình như tâm trạng
(“Lời tạ từ gửi một dòng sông” là tập bút kí của Hoàng Phủ Ngọc
đi không đành trong tình yêu của con sông đối với kinh
Tường, được tác giả xem như là lời tạ từ gửi dòng sông Hương)
thành. Tất cả vẻ đẹp ấy cứ vang lên trong tâm hồn tôi thành
một nốt nhạc của tình khúc... Tôi chợt nảy ra một ý định tái 2. “Đất nước có nhiều dòng sông, nhưng chỉ có một dòng
hiện cái khoảnh khắc kỳ ảo ấy của sông Hương. Đó là một lời sông để thương để nhớ, như cuộc đời có nhiều cuộc tình
hứa với dòng sông mà chừng nào chưa thực hiện được thì nhưng chỉ có một cuộc tình để mang theo”. (Khuyết danh)
lòng tôi vẫn băn khoăn, day dứt khôn nguôi.
3. “Ôi dòng sông Đời Người, ôi con sông Huế, nó đã chở đầy
Tôi có một chị bạn (Việt kiều ở Thụy Sĩ) mua một ngôi nhà ở phận người từ thuở từng giọt địa chất sinh ra.”
gần Văn Thánh để chuẩn bị về quê. Chị có tổ chức một đêm (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
nhạc Cung Trầm Tưởng. Người đến dự phần lớn là những trí
thức Huế. Chị C. H. có giọng hát véo von, lanh lảnh, cuốn hút 4. “Chảy suốt đời văn và đời người của Hoàng Phủ Ngọc
người nghe. Giọng hát của chị ngân vang trên nền đá cẩm Tường có lẽ là dòng sông Hương, mà nếu không có những
thạch của sự im lặng... Ngoài vườn, ánh trăng lọt qua những trang văn của ông, nó đã không long lanh đến thế trong lòng
cành lá, khiến cho bóng đêm có vẻ như chia thành nhiều tầng, bao nhiêu người đọc, dù đến hay chưa đến Huế.”
nhiều mảng... Con đường nhỏ, những cây dừa cao dọc bờ (Lê Đức Dục)
nước, cồn đất hoang xa xa... tất cả đã khiến cho con sông 5. “... Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con
Hương dường như mang nhiều ý tứ khác nhau. Bỗng nhiên từ Sông Hương mê hoặc. Nhiều tác phẩm văn học đã đưa con
đâu vang lại một tiếng động khẽ nhưng rất rõ ràng như một sông này đến với người đọc để từ đó đem lòng yêu Huế, dù
tiếng thở dài. Tôi cảm thấy như có một vị khách không mời, chưa một lần đặt chân đến nơi này. Nhưng với Hoàng Phủ
đang nép mình trong bóng tối, dưới mái hiên sau. Người Ngọc Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm
khách ấy tôi nghĩ chẳng phải là ai khác mà chính là sông tha thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của
Hương. Vâng, sông Hương đã trải qua cả ngàn đêm âm nhạc Hương Giang một cách toàn diện, đưa Sông Hương trở thành
từ những du thuyền trên sông của giới quý tộc xưa đến những biểu tượng của đất cố đô...” (Bùi Thị Hải Hạnh).
đêm nhạc thính phòng như ở căn nhà mới của chị C.H hiện
tại... Sông Hương đã nghe thấy, đã lưu giữ những cảnh ấy, Bố cục phân tích:
những tình ấy... Sông Hương mang trong dòng chảy lững lờ
một nét tâm sự của nghìn năm. Sáng ngủ dậy, qua cửa kính
phòng khách, tôi thấy sông Hương là một dòng bình yên,
thanh thản và vô tận như một nét vĩnh hằng. Nhớ lại những
điều đã xảy ra trong đêm hôm qua, tôi thầm nghĩ: Xin cảm ơn
người đã đem cuộc đời mình dệt thành tâm hồn của tôi. Cảm
ơn sông Hương! Tôi sẽ vẽ chân dung người trong một nét ký
họa.
Thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông như là món quà nhỏ
thay cho một chút lòng thành. Đây là bút ký dài nhất và tâm
huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên
một dòng sông y như nó vốn có. Dòng sông của văn hóa, lịch
sử, huyền thoại... Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho
thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên
ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ
đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động
làm thay đổi nó dù điều này không phải dễ...
I. HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM: - Có thể thấy bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ
1. Thủy trình của sông Hương: đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả
một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương.
a. Sông Hương ở thượng nguồn: Dường như nhà văn đã vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng
Với câu hỏi gợi tìm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, bằng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại
bước chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội vi thành phố Huế. Tác giả không chỉ tái hiện một cách chân
nguồn dòng chảy của Hương giang. thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của dòng sông mà
- Ở thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ trữ tình. quan trọng hơn là biến cái thủy trình ấy thành hành trình của
Chẳng phải ngẫu nhiên khi người ta gọi sông Hương là bản một người con gái đẹp duyên dáng và tình tứ. Đó cũng là cảm
trường ca của rừng già. Ở nơi khơi nguồn của dòng chảy, gắn nhận riêng, độc đáo và đầy thi vị của HPNT về Hương giang
liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.
đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng tráng, vừa trữ tình Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy ở dòng sông này một vẻ
như bản trường ca bất tận về thiên nhiên: “rầm rộ giữa những đẹp khác, vẻ đẹp ấy sâu lắng và cũng bí ẩn hơn. Đó là vẻ đẹp
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn trầm mặc “như triết lí”, “như cổ thi” của sông Hương. Đi
xoáy như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn và cũng có lúc nó giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm
trở nên dịu dàng và say đắm giữa những rặng dài chói lọi bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn.
của hoa đỗ quyên rừng”. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép
- Đến giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một “cô gái mình bên “những giấc ngủ nghìn năm của vua chúa được
Di-gan phóng khoáng và man dại”. Đây là một liên tưởng thú phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”.
vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này HPNT đã khắc vào
tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại c. Sông Hương khi chảy qua thành phố Huế:
nhưng cũng rất tình tứ của con sông. Biện pháp nhân hóa Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông
được sử dụng khiến con sông hiện lên như một con người có Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của
cá tính, có tâm hồn: “rừng già đã hun đúc cho nó một bản vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thảng thực yên tâm theo
lĩnh hoang dại, một tâm hồn tự do và trong sáng”. hướng Tây Nam - Đông Bắc” rồi uốn một cánh cung rất nhẹ
- Ra khỏi rừng, sông Hương trở thành “người mẹ phù sa của tới Cồn Hến khiến dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng
một vùng văn hóa xứ sở”. Không chỉ giúp người đọc có thêm “vâng” không nói ra của tình yêu. Nằm ngay giữa lòng thành
một góc nhìn, một sự hiểu biết vẻ đẹp hùng vĩ, man dại đầy phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống như sông
chất thơ của sông Hương, HPNT còn muốn đem đến một cái Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, nhưng trong
nhìn sâu sắc hơn, muốn “ghi công” sông Hương như một cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận
đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn dưới nhiều góc độ.
hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Sông Hương chính là - Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi
khởi nguồn, sự bắt đầu của một không gian văn hóa – văn hóa lưu của nó tạo nên những đường nét thật tinh tế, làm nên vẻ
Huế. đẹp cổ kính của cố đô. Đó là hình ảnh chiếc cầu trắng bắc qua
dòng sông “in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vành
b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố: trăng non”. Hai bên bờ sông và những chi lưu của nó xum
Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “người xuê những bóng cây cổ thụ “tỏa vầng lá u sầm xuống những
đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, xóm thuyền xúm xít”. Điều này khiến cho Huế mang một vẻ
được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình đẹp riêng mà không một thành phố hiện đại nào có được.
của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm - Qua cảm nhận dưới góc độ âm nhạc, sông Hương chính là
kiếm có ý thức” tình nhân đích thực của người con gái đẹp điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, rất chậm rãi, sâu
trong một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích. lắng, trữ tình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thật tinh tế khi
Sông Hương lúc này mang một dáng vóc mới, một sức sống nhận ra cái đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông
mới đầy khát khao và lãng mạn: “Sông Hương đã chuyển khác ở Việt Nam và trên thế giới, lưu tốc sông Hương có
dòng một cách liên tục, vòng giữ những khúc quanh đột ngột, phần chậm rãi.
uốn mình theo những đường cong thật mềm”. + Nhà văn lí giải từ đặc điểm địa lí “những chi lưu ấy cùng
- Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách, khiến nó phải vượt dòng nước khiến cho sông Hương khi chảy qua thành phố
qua một loạt các chướng ngại vật: Hòn Chén, Ngọc Trản, Huế đã trôi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ là mặt hồ yên tĩnh”.
Nguyệt Biều...nhưng chính trong quá trình ấy nó lại có cơ hội
phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm với những
đường cong tuyệt mĩ của người con gái đẹp, ra đi từ cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại.
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mang đến một kiến giải khác Phân tích cụ thể:
hết sức thi vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông Tôi vẫn cho rằng, những nhà văn thực sự có phong cách đều
yêu quý. Đó là cách lí giải bằng trái tim: sông Hương chảy mang trong tâm hồn một “chất nam châm” riêng để hút lấy
chậm, điệu nhảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của những gì thích hợp với nó. “Những gì” ấy, tôi gọi là “vùng
mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thẩm mỹ” của mỗi cây bút. Huế và dòng sông Hương là vùng
thân thương trước khi phải rời ra. thẩm mỹ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là quê hương văn học
- Từ góc nhìn văn hóa, tác giả gọi sông Hương là “người tài đích thực của ông. Ông viết về đối tượng này bằng một trái
nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, rồi thì dẫn ra câu chuyện về tim say đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri
người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ... Tất cả đó là sự thức phong phú để tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa
khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa sông Hương sang, vừa lấp lánh trí tuệ, vừa chan chứa ân tình.
và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hóa Huế nói
chung và vẻ đẹp sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của
bất kì dòng sông nào ở trong nước cũng như trên thế giới. trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương
- Với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế.
là một người tình dịu dàng và chung thủy. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc
+ Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch hướng chính độ khác nhau, từ góc độ địa lý đến lịch sử và qua góc nhìn
Bắc. Tuy nhiên do đặc điểm địa lí của nước ta, thủy trình văn hóa, thơ ca. Ở góc độ địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm
của dòng sông đã thay đổi, nó chuyển dòng sang hướng hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều
Đông và như vậy sẽ phải đi qua một góc của thành phố vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối
Huế, ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lí tự quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Với câu hỏi gợi tìm
nhiên của dòng sông. “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, bằng bước chân rong ruổi,
+ Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ, khúc ngoặt ấy là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn dòng chảy của
biểu hiện của hút vấn vương, thậm chí có chút “lẳng lơ Hương giang. Ở thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp
kín đáo” của người tình thủy chung, chí tình. Nhà văn hùng vĩ trữ tình. Chẳng phải ngẫu nhiên khi người ta gọi sông
hình dung sông Hương như nàng Kiều trở về tìm Kim Hương là “bản trường ca của rừng già”. Ở nơi khơi nguồn
Trọng để trao lời thề trước khi đi xa. Một phát hiện thực của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ,
độc đáo, thú vị và đậm màu sắc văn chương. Hương giang con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa
vốn đẹp nay càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn, một vẻ đẹp hài hùng tráng, vừa trữ tình như bản trường ca bất tận về thiên
hòa giữa hình dáng bên ngoài và phần tâm hồn sâu thẳm nhiên: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
bên trong. những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào đáy vực
bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
Nhận xét: những rặng dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng”. Sắc đỏ
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ “chói lọi” ấy của loài đỗ quyên càng làm nổi bật lên cái dáng
nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà điệu rộn rã, bừng bừng khí thế của một dòng sông giữa lòng
văn đều thể hiện một cảm nghĩ và khá mới mẻ về con sông đã Trường Sơn hoang dã và bí ẩn, tựa như tuổi trẻ son sắt của
trở thành biểu tượng của Huế. Ở trong đó ta thấy bàng bạc những chàng trai, những cô gái đang thỏa sức vẫy vùng giữa
một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và biển trời thanh xuân nồng nhiệt, sống động. Cuối cùng cái vẻ
thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình của dòng sông
vẻ đẹp thiên nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương
quê hương. giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
Nhưng bấy nhiêu đấy vẫn chưa đủ để làm nổi bật hẳn cái cá
tính của dòng Hương giang giữa muôn vàn các dòng sông của
nhiều tác giả khác, ví như so sánh với Nguyễn Tuân nhà văn
cũng có một dòng sông Đà hung bạo, mãnh liệt kết hợp với
vẻ trữ tình thi vị đầy đặc sắc. Thế nên Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã chọn cách nhân hóa sông Hương, khoác lên cho nó
một tính cách thật đặc biệt bằng dáng vẻ của một người con
gái Di-gan “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn,
cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”. Đến
giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một “cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại”.
Đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so a. Vẻ đẹp của dòng sông qua góc nhìn âm nhạc:
sánh này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người Khi sông Hương chảy lặng lờ qua thành phố Huế, nhà văn đã
đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng có một phát hiện vô cùng thú vị: “Sông Hương là người tài
rất tình tứ của con sông. Biện pháp nhân hóa được sử dụng nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đây quả thực là một sự so sánh
khiến con sông hiện lên như một con người có cá tính, có tâm vô cùng bất ngờ và độc đáo.
hồn: “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh hoang dại, - Với sự hiểu biết của mình, Hoảng Phủ Ngọc Tường đã huy
một tâm hồn tự do và trong sáng”. Nhà văn đã sử dụng hàng động vốn kiến thức và vốn ngôn từ sâu rộng để đưa vẻ đẹp
loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh của sông Hương gắn liền với âm nhạc. Âm nhạc cổ điển, âm
liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” nhạc dân gian Huế đều được hình thành từ mặt nước dòng
để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn Hương.
sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là - Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tinh tế khi dẫn ra câu chuyện
“bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người về người nghệ sĩ già chơi đàn hơn nửa thế kỷ, một buổi tối
mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với khi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/
một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho Đục như tiếng suối mới xa nửa vời” đã nhổm dậy vỗ đùi chỉ
gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên đó chính là “Tứ đại
phương diện khác nhau. Ra khỏi rừng, sông Hương trở thành cảnh”. Câu chuyện trên có ý nghĩa khẳng định về mối quan
“người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dòng sông hệ mật thiết giữa sông Hương và nền âm nhạc Huế. Cảm
đã hoàn toàn rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở nhận của Nguyễn Du về điệu “Tứ đại cảnh” của người Huế
mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ đã hiện diện trên những trang viết của đại thi hào Nguyễn Du
bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế khi miêu tả về tiếng đàn của Kiều. Chính sông Hương là nơi
bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân khởi nguồn cho những làn điệu dân ca Nam ai, Nam bình,
thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”. Nhắc nhở con người những điệu mái hò mãi đẩy, lời ca Huế luôn đồng hành và
nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời đã sóng sánh cùng với dòng nước Hương Giang.
dang rộng vòng tay ôm ấp, hy sinh, trải qua biết bao nhiêu thế
hệ thăng trầm nuôi lớn đứa con cố đô bằng tất cả tấm lòng b. Sông Hương – Dòng sông của sử thi viết giữa màu lá cỏ
yêu thương, mong đợi. Có thể nói rằng với sự liên tưởng này xanh biếc:
Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ biến sông Hương thành Dòng sông Hương dưới góc nhìn lịch sử bây giờ không còn là
một thực thể có linh hồn có xúc cảm, giúp bạn đọc có thêm cô gá Digan phóng khoáng và man dại, cũng không phải thiếu
một góc nhìn, một sự hiểu biết vẻ đẹp hùng vĩ, man dại đầy nữ ngủ mơ màng giữa cánh đầu Châu Hóa mà bây giờ, người
chất thơ của sông Hương mà còn đặc biệt nhấn mạnh làm nổi tình của đất Huế đang mang trong mình một màu lịch sử -
bật mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với đang trở thành một chứng nhân trước biết bao biến thiên của
mảnh đất cố đô bao đời nay, góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo lịch sử thiêng liêng. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trong ký
tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Điều đó cũng của mình: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian
phần nào thể hiện được tấm lòng gắn bó của nhà văn với quê ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc...”
hương, gắn bó với dòng sông có nhiều nét cá tính độc đáo Những trang văn của người nghệ sĩ gợi lại cho người đọc biết
này. bao quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc ta, nhấn mạnh sự
hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Với người Huế,
Khái quát: với những người yêu sông Hương, dòng sông này không
Như vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả những là một bản hùng ca, một bản trường ca mà còn là một
dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi bản tình ca giữa đời thường.
góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ và khá mới mẻ về Trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
con sông đã trở thành biểu tượng của Huế. Ở trong đó ta thấy nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử, từng nhánh rẽ
bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự của dòng sông cho đến cả những cây đa, cây cổ thụ bên dòng
hào và thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những sông cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã tiến hành
vẻ đẹp thiên nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông một “cuộc quay ngược thời gian” ngoạn mục để trở về quá
quê hương. khứ, khẳng định vai trò của sông Hương trong lịch sử dân
tộc.
- Với một đất nước có bề dày lịch sử như Việt Nam, kể từ
thời vua Hùng , sông Hương đã là dòng sông biên thùy xa
xôi.
- Bước sang thời trung đại, với tên gọi khác là Linh Giang nó
đã cùng với nhân dân Huế “oanh oanh liệt liệt” bảo vệ phần
2. Dòng sông của âm nhạc, lịch sử, thi ca và cuộc đời
biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
liền với những chiến công của người anh hùng áo vải Hương Giang cứ tự tình, lặng lờ mà đem trong mình chất thơ
Quang Trung – Nguyễn Huệ. đầy ăm ắp như thế. Ký của Hoàng Phủ cứ thôi thúc con người
- Trải qua những cuộc chiến tàn khốc và đẫm máu của những ta phải đến Huế một lần, thôi thúc con người ta tìm đến
cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX, sông Hương gắn liền với cuộc những tứ thơ về dòng Hương, dòng Huế...
cách mạng tháng Tám với những chiến công vang dội, rung
chuyển. Đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân d. Dòng sông của cuộc đời:
1968, sông Hương cũng như kinh thành Huế cùng với những Trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương mang một vẻ
người dân Huế đã chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp của đế đẹp dịu hiền và khiêm nhường như thế. Điều làm nên vẻ đẹp
quốc Mỹ. Sông Hương cùng với những người dân xứ Huế đã đáng trọng của con sông chính là biết lắng nghe lời kêu gọi
chiến đấu một cách kiên cường, bất khuất và dũng cảm để của Tổ quốc và hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Khi trở về
chống lại kẻ thù. Không phải ngẫu nhiên mà một hội nghị với cuộc sống bình thường, sông Hương dịu hiền hệt như
tổng kết chiến tranh đồng chí đại tướng đã phát biểu: “Lịch sử người con gái Huế. Những đổi thay bất ngờ của sông Hương
Đảng đã ghi bằng nét son tên thành phố Huế, thành phố tuy mang dáng dấp của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam
nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”. suốt mấy nghìn năm qua. Những biến thiên của cuộc đời suốt
Cùng với rất nhiều những dòng sông trên đất nước Việt Nam mấy ngàn năm lịch sử cho thấy sự thích ứng của con người
như sông Bến Hải, sông Gianh, sông Đà, sông Bạch Đằng,... Việt Nam là vô hạn, sức mạnh của con người Việt Nam là
sông Hương đã trở thành dòng sông của lịch sử mang vẻ đẹp vô hạn. Luôn tự làm mới mình, cũng chính vì điều này, mà
của một bản hùng ca ghi lại những tháng năm chiến đấu kiên sông Hương luôn gây được thiện cảm với bất kỳ ai biết tới.
cường của nhân dân ta. Bên cạnh sự mềm mại, dịu dàng, vẻ
đẹp của sông Hương còn được nhìn nhận ở những khía cạnh
khác nhau đặc biệt là khía cạnh lịch sử.
c. Sông Hương – Dòng sông của thi ca, không bao giờ tự
lặp lại chính mình:
Sông Hương dưới góc nhìn thi ca là một dòng sông không
bao giờ tự lặp lại chính mình, cũng không bao giờ lặp lại
trong mỗi góc nhìn của người nghệ sĩ. Với cách viết
trích dẫn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy trong
lòng những người đọc biết bao vần thơ hay về Huế, về dòng
Hương
- Qua thơ của Tản Đà: “Dòng sông trắng, lá cây xanh”, đó là
sự tương giao, sự đồng điệu của những tâm hồn người nghệ
sĩ. Đó là nét chấm phá tiêu biểu của nhà văn trong tác phẩm
của mình.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện vẻ đẹp của một sức
mạnh phục sinh trong tâm hồn nhờ cuộc sống mới, nhờ thời
đại mới, con người mới, cách mạng đã gột rửa, thanh tẩy mọi
nhuốc nhơ, nhục nhã ê chề của đời ca nữ, kỹ nữ trên sông
Hương:
“Răng không cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
- Thi đàn Việt Nam cũng đã ghi nhận biết bao nhiêu tao nhân,
mặc khách buông lòng mình về dòng Hương. Trong thơ Hàn
Mặc Tử, cũng đã từng gây cho bạn đọc những bồi hồi và ám
ảnh:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay” Phân tích cụ thể:
- Nhà thơ Thu Bồn cũng đã từng viết trong tác phẩm của Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông
mình: Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc
“Con sông dùng dằng con sông không chảy độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông
Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, sông Hương cũng như
thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.Đây quả thực là kinh thành Huế cùng với những người dân Huế đã chứng kiến
một sự so sánh vô cùng bất ngờ và độc đáo. Với sự hiểu biết sự tàn phá khủng khiếp của đế quốc Mỹ. Sông Hương cùng
của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến với những người dân xứ Huế đã chiến đấu một cách kiên
thức và vốn ngôn từ sâu rộng để đưa vẻ đẹp của sông Hương cường, bất khuất và dũng cảm để chống lại kẻ thù. Không
gắn liền với âm nhạc. Âm nhạc cổ điển, âm nhạc dân gian phải ngẫu nhiên mà một hội nghị tổng kết chiến tranh đồng
Huế đều được hình thành từ mặt nước dòng Hương. chí đại tướng đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét
son tên thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tinh tế khi dẫn ra câu chuyện hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
về người nghệ sĩ già chơi đàn hơn nửa thế kỷ, một buổi tối
khi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Cùng với rất nhiều những dòng sông trên đất nước Việt Nam
Đục như tiếng suối mới xa nửa vời” đã nhổm dậy vỗ đùi chỉ như sông Bến Hải, sông Gianh, sông Đà, sông Bạch Đằng,...
vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên đó chính là “Tứ đại sông Hương đã trở thành dòng sông của lịch sử mang vẻ đẹp
cảnh”. Câu chuyện trên có ý nghĩa khẳng định về mối quan của một bản hùng ca ghi lại những tháng năm chiến đấu kiên
hệ mật thiết giữa sông Hương và nền âm nhạc Huế. Cảm cường của nhân dân ta. Bên cạnh sự mềm mại, dịu dàng, vẻ
nhận của Nguyễn Du về điệu “Tứ đại cảnh” của người Huế đẹp của sông Hương còn được nhìn nhận ở những khía cạnh
đã hiện diện trên những trang viết của đại thi hào Nguyễn Du khác nhau đặc biệt là khía cạnh lịch sử.
khi miêu tả về tiếng đàn của Kiều. Chính sông Hương là nơi
khởi nguồn cho những làn điệu dân ca Nam ai, Nam bình, Sông Hương dưới góc nhìn thi ca là một dòng sông không
những điệu mái hò mãi đẩy, lời ca Huế luôn đồng hành và bao giờ tự lặp lại chính mình, cũng không bao giờ lặp lại
sóng sánh cùng với dòng nước Hương Giang. trong mỗi góc nhìn của người nghệ sĩ. Với cách viết trích
dẫn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy trong lòng
Dòng sông Hương dưới góc nhìn lịch sử bây giờ không còn là những người đọc biết bao vần thơ hay về Huế, về dòng
cô gá Digan phóng khoáng và man dại, cũng không phải thiếu Hương . Qua thơ của Tản Đà: “Dòng sông trắng, lá cây
nữ ngủ mơ màng giữa cánh đầu Châu Hóa mà bây giờ, người xanh”, đó là sự
tình của đất Huế đang mang trong mình một màu lịch sử - tương giao, sự đồng điệu của những tâm hồn người nghệ sĩ.
đang trở thành một chứng nhân trước biết bao biến thiên của Đó là nét chấm phá tiêu biểu của nhà văn trong tác phẩm của
lịch sử thiêng liêng. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trong ký mình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện vẻ đẹp của một
của mình: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian sức mạnh phục sinh trong tâm hồn nhờ cuộc sống mới, nhờ
ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc...”. thời đại mới, con người mới, cách mạng đã gột rửa, thanh tẩy
Những trang văn của người nghệ sĩ gợi lại cho người đọc biết mọi nhuốc nhơ, nhục nhã ê chề của đời ca nữ, kỹ nữ trên sông
bao quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc ta, nhấn mạnh sự Hương:
hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Với người Huế,
với những người yêu sông Hương, dòng sông này không “Răng không cô gái trên sông
những là một bản hùng ca, một bản trường ca mà còn là một Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
bản tình ca giữa đời thường. Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
Trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử, từng nhánh rẽ Thi đàn Việt Nam cũng đã ghi nhận biết bao nhiêu tao nhân,
của dòng sông cho đến cả những cây đa, cây cổ thụ bên dòng mặc khách buông lòng mình về dòng Hương. Trong thơ Hàn
sông cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã tiến hành Mặc Tử, cũng đã từng gây cho bạn đọc những bồi hồi và ám
một “cuộc quay ngược thời gian” ngoạn mục để trở về quá ảnh:
khứ, khẳng định vai trò của sông Hương trong lịch sử dân “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
tộc. Với một đất nước có bề dày lịch sử như Việt Nam, kể từ Có chở trăng về kịp tối nay”
thời vua Hùng , sông Hương đã là dòng sông biên thùy xa
xôi. Bước sang thời trung đại, với tên gọi khác là Linh Giang Nhà thơ Thu Bồn cũng đã từng viết trong tác phẩm của mình:
nó đã cùng với nhân dân Huế “oanh oanh liệt liệt” bảo vệ
phần biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương “Con sông dùng dằng con sông không chảy
gắn liền với những chiến công của người anh hùng áo vải Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Quang Trung – Nguyễn Huệ. Trải qua những cuộc chiến tàn
khốc và đẫm máu của những cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX, Hương Giang cứ tự tình, lặng lờ mà đem trong mình chất thơ
sông Hương gắn liền với cuộc cách mạng tháng Tám với đầy ăm ắp như thế. Ký của Hoàng Phủ cứ thôi thúc con người
những chiến công vang dội, rung chuyển. Đặc biệt là trong
ta phải đến Huế một lần, thôi thúc con người ta tìm đến Hoàng Phủ chọn một huyền thoại, để lý giải về một cái tên.
những tứ thơ về dòng Hương, dòng Huế... Vì yêu thương dòng sông này, những người dân ven sông đã
nấu thứ nước của hàng trăm loài hoa đổ xuống để nước của
Trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương mang một vẻ dòng sông này thơ mát muôn đời. Tôi tự hỏi, mình có đang
đẹp dịu hiền và khiêm nhường như thế. Điều làm nên vẻ đẹp thực lòng thực dạ muốn ôm trọn hình ảnh của dòng sông này
đáng trọng của con sông chính là biết lắng nghe lời kêu gọi vào trong trái tim hay không? Bởi lẽ, Hoàng Phủ Ngọc
của Tổ quốc và hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Khi trở về Tường đã quá xuất sắc khi xây dựng hình tượng về dòng
với cuộc sống bình thường, sông Hương dịu hiền hệt như Hương – dòng Huế qua những góc nhìn khác nhau: góc độ
người con gái Huế. Những đổi thay bất ngờ của sông Hương lịch sử, góc độ thiên nhiên, góc độ thi ca, góc độ âm nhạc,
mang dáng dấp của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam góc độ cuộc đời,...
suốt mấy nghìn năm qua. Những biến thiên của cuộc đời suốt
mấy ngàn năm lịch sử cho thấy sự thích ứng của con người Bài ca về sông Hương sẽ còn được biết bao nhiêu con người
Việt Nam là vô hạn, sức mạnh của con người Việt Nam là vô hát hoài hát mãi. Ký ức có trôi đi, thì lịch sử vẫn luôn nhuộm
hạn. Luôn tự làm mới mình, cũng chính vì điều này, mà sông một màu tự hào chói lọi lên dòng sông của một khúc tâm
Hương luôn gây được thiện cảm với bất kỳ ai biết tới. tình. Dòng Hương – một dòng văn hóa – một dòng Huế thật
thơ!
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm
lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua
đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn
về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng
định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở
thể bút ký đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng
biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học
về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê
hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế
mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự
mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí.
Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và
khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà
sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi
mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.
2. Kết bài:
KB1:
Thiên nhiên Huế thật dịu dàng và thơ mộng dưới ngòi bút của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cuộc hành trình mà người đọc được
trải nghiệm qua “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” lần lượt theo
dòng chảy của Hương giang, tôi bắt gặp khung cảnh thiên
nhiên Huế lúc nguyên sơ, trong trẻo, lúc mượt mà, khi kì ảo,
lúc dịu dàng say đắm, khi thâm trầm trang nghiêm. Tất cả đều
sống động qua tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường
với con sông này. Không hiểu sao đọc xong ký của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, có những dòng thơ cứ trở đi trở lại trong
tôi:
2. “Xuân Quỳnh viết bài này “bợm” thật!” - Nhà thơ Vũ Cao
3. "Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay
tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ...”
- TS Chu Văn Sơn
1. Khổ 1: Sự đối lập - Thông điệp tình yêu mới mẻ:
4. “Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội,
nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là - Sử dụng các cụm từ đối lập: dữ dội >< dịu êm,
khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân ồn ào >< lặng lẽ
vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở” - GS TS Trần Đăng + Những trạng thái đối cực của con sóng
Suyền + Những trạng thái đối cực của tình yêu
+ Những trạng thái đối lập của người con gái khi yêu.
5. “Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không - Liên hệ:
lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh + “Thuyền và biển” – Xuân Quỳnh:
là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển “Vì tình yêu muôn thủa
hình cho qui luật : thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có Có bao giờ đứng yên”
lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân + “Em bảo anh đi đi” – Puskin:
Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” - TS Chu Văn Sơn “Em bảo: "Anh đi đi"
Sao anh không đứng lại ?
6. “Thơ Xuân Quỳnh chất chứa tình yêu thương con người,
Em bảo: "Anh đừng đợi"
như một “bản năng gốc”, từ đó làm nên chất thơ rất đậm nét ở
Sao anh vội về ngay ?
chị. Xuân Quỳnh làm thơ dễ dàng, như lời “tự hát” ấp ủ từ
Lời nói thoảng gió bay
đâu đó, ngân nga mỗi khi có dịp, câu thơ trôi chảy kể cả
Đôi mắt huyền đẫm lệ
những khi diễn đạt những điều tế nhị, sâu kín. Những tình
Mà sao anh dại thế
cảm được biểu hiện tự nhiên, chân thực, một cách đầy chất
Không nhìn vào mắt em
thơ” - Nhà thơ Lê Thành Nghị
Mà sao anh dại thế
7. “Thơ Xuân Quỳnh có nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, Không nhìn vào mắt em
khi đắm say hạnh phúc, lúc day dứt suy tư. Nhưng xuyên suốt Không nhìn vào mắt sầu
các tập thơ của chị là một tình yêu sâu nặng không nhạt phai. Không nhìn vào mắt sâu ?”
Trong cái hữu hạn ngắn ngủi của cuộc đời, tình yêu trở thành - Từ “và": thể hiện mối quan hệ song hành. Những trạng thái
vĩnh cửu. Với bản chất trong sáng và tinh diệu của nó, tình đối lập này thường đi liền với nhau, không tách rời, tạo ra
yêu không thể bị thời gian tàn phá, bị không gian chia rẽ và những xúc cảm đặc biệt trong tình yêu.
ngăn cách. Tình yêu bất tận và bền vững, vượt ra ngoài cái - Thông điệp tình yêu mới mẻ:
giới hạn thường tình của lẽ tử sinh.” – Lưu Khánh Thơ + Người phụ nữ hiện đại dám đấu tranh vì tình yêu, vượt
qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc
8. “Có lẽ từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, đích thực.
phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ + Chủ động buông bỏ những giới hạn chật hẹp, tầm thường
mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn được thể hiện ở một (sông) để tìm ra biển lớn tình yêu - tình yêu đích thực
tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào phong phú như vậy...” - Nhà trong cuộc đời (biển, đại dương).
thơ Vũ Nho - Liên hệ:
+ “Hương thầm” – Phan Thị Thanh Nhàn:
“Dấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay!
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,
Bên ấy có người ngày mai ra trận!
Bên ấy có người ngày mai đi xa.”
- Sử dụng phạm trù đối lập “Dẫu xuôi” >< “Dẫu ngược”, - Cặp phạm trù đối lập “tuy” >< “vẫn” , “dẫu” >< “vẫn”: Thể
“phương Bắc” >< “phương Nam”: hiện những triết lý về sự vĩnh hằng của vũ trụ bao la đối lập
+ Đặt giả thiết “dẫu” = Cho dù, chưa xảy ra. với sự hữu hạn của đời người.
+ Cách nói lạ hóa “xuôi về phương Bắc”, “ngược về phương => Xuân Quỳnh là người rất đỗi nhạy cảm với những bước đi
Nam” đã trở thành một tín hiệu nghệ thuật độc đáo – lời của thời gian. Và chính sự nhạy cảm ấy đã dẫn chị tới tâm
tâm tình, khát vọng của Xuân Quỳnh. trạng lo âu, khắc khoải. Thế nhưng đến với “Sóng”, Xuân
=> Mượn phương hướng của trời đất để khẳng định lòng thủy Quỳnh đã vượt qua quy luật đó để tìm thấy sự lạc quan trong
chung là sáng tạo mới mẻ của Xuân Quỳnh. chính mình. Lựa chọn sống tích cực, không chán nản, tuyệt
+ Cuộc đời này còn ẩn chứa rất nhiều những éo le mà em và vọng, sống hết mình cho mỗi phút giây.
anh cần phải trải qua. - Liên hệ:
- Đất trời này dẫu có bốn phương tám hướng, có xuôi phương + “Vội Vàng” – Xuân Diệu:
Nam hay ngược phương Bắc thì trái tim em cũng chỉ có duy “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
nhất một phương để hướng về đó là phương anh – phương Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
của hạnh phúc, của tình yêu, của khát vọng đợi, chờ, yêu, tin. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
- Liên hệ: “Thuyền và biển” - Xuân Quỳnh Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Biển mênh mông nhường nào
+ “Hoa cỏ may” – Xuân Quỳnh:
Chỉ có biển mới biết
“Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Thuyền đi đâu, về đâu” Áo em sơ ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,
6. Khổ 7: Sự suy ngẫm: Ai biết lòng anh có đổi thay ?”
- Từ “dẫu” đã có một sự biến đổi khéo léo thành từ “dù” – 8. Khổ 9: Khát vọng hóa thân:
đây là sự lật trở ý thơ vô cùng tài tình.
+ Để ngoài việc khẳng định một tình yêu thủy chung Xuân - “Biển”: Biển lớn tình yêu.
Quỳnh còn muốn san sẻ những hạnh phúc của tình yêu. - “Sóng”: Khát vọng hóa thân cho cái tôi cá nhân.
- Nghệ thuật đảo 2 câu cuối: “Dù muôn vời cách trở - “Trăm ngàn”: Con số ước lệ chỉ sự vô cùng, vô tận.
Con nào chẳng tới bờ” - Đặt trong thời điểm ra đời ở đây cũng có thể hiểu: mang
+ Để theo thông thường: Ý thơ thuận hơn và sự khẳng định tình yêu cá nhân của mình hòa nhập vào tình yêu Tổ quốc.
trở nên chắc chắn, đầy lý trí với một kết thúc bình ổn, có => Cái tôi cá nhân mong muốn được hóa thân, được tan ra
hậu. thành trăm ngàn con sóng nhỏ, được hòa vào đại dương để
+ Kết cấu đảo: Khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh, vĩnh viễn hát mãi khúc ca ngàn năm.
mang chút cảm tính và vì thế niềm tin mãnh liệt chân - Người phụ nữ muốn được tan mình ra trở thành những con
chính vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có thêm dư sóng để hòa nhập vào biển lớn tình yêu. Khao khát sự đồng
vị đắng cay của người từng trải. điệu tuyệt đích vô biên, phá vỡ mọi giới hạn, mọi khoảng
- Hành trình của sóng tìm ra đại dương với rất nhiều những cách để sống trọn vẹn với tình yêu trong từng hơi thở nồng
gian khổ nhọc nhằn, có những khi sẽ gặp bão giông hay sóng nàn. => Khao khát được sống trong tình yêu vĩnh hằng không
gió. Thế nhưng cuối cùng, vượt qua tất cả mọi khó khăn trở chỉ xuất hiện khi chị ở độ tuổi 25 mà sau này khi đã đi qua
ngại, sóng vẫn tìm được đến nơi đích thực thuộc về mình. những giông bão trong cuộc đời thì đó vẫn là khát khao mà
- Cũng giống như hành tình của em tìm đến tình yêu của chị mong mỏi.
mình, bỏ qua tất cả những giới hạn nhỏ bé, tầm thường để - Liên hệ:
đến bên anh – tình yêu đích thực của cuộc đời em. + “Tự hát” – Xuân Quỳnh:
- Liên hệ: “Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
+ Ca dao: Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua” Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
+ “Thơ tình cuối mùa thu” – Xuân Quỳnh: + “Thơ tình cuối mùa thu” – Xuân Quỳnh:
“Thời gian như là gió
“Tình ta như hàng cây
Mùa đi cùng tháng năm
Đã qua mùa gió bão Tuổi theo mùa đi mãi
Tình ta như dòng sông Chỉ còn anh và em
Đã yên ngày thác lũ” Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...”
Phân tích chi tiết: Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông,
của con sóng và của “bể”, ở đây có thể hiểu là biển, là đại
1. Khổ 1: Sự đối lập - Thông điệp tình yêu mới mẻ: dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông đổ về biển lớn,
sóng không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng
Viết về đề tài tình yêu, đặc biệt khi lựa chọn hình tượng sóng
chuyển mình ra biển lớn, tìm về đại dương, tìm đến nơi thuộc
làm hình tượng chính cho tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh
về. Ở hai câu thơ này, mạch sóng như bứt phá ra khỏi một
không phải là người nghệ sĩ đầu tiên nhưng lại là người
không gian chật hẹp để tìm đến những điều lớn lao. Cũng
nghệ sĩ vô cùng tinh tế, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của
giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ, vượt qua
trái tim người phụ nữ . Điều này được thể hiện rõ qua những
những giới hạn nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu
vần thơ:
đích thực của cuộc đời mình. Có thể thấy rằng, đây cũng
“Dữ dội và dịu êm chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh,
Ồn ào và lặng lẽ cũng là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ
Sông không hiểu nổi mình hiện đại, dám đấu tranh vì tình yêu, vượt qua những thứ lễ
Sóng tìm ra tận bể” giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc đời
mình. Nếu như trong bài “Hương thầm” nhà thơ Phan Thị
Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi Thanh Nhàn từng viết:
cũng đã từng tìm về biển với những mong mỏi được trải lòng
và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại dương bao la, “Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
trước muôn trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có Cô gái ngượng ngùng sang nhà hàng xóm
trong mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới tận bây giờ, Bên ấy có người ngày mai ra trận
biển vẫn hát khúc ca của đại dương, và chúng tôi, độc giả của Bên ấy có người ngày mai đi xa”
những năm tháng này, vẫn ru hoài giấc mơ qua những thi
Để rồi họ chia tay mà chẳng dám nói với nhau điều gì. Xuân
phẩm khởi nguồn từ con sóng. Trong khổ thơ này, nghệ thuật
Quỳnh thì không như vậy, chị luôn quan niệm không chỉ
đối đã được sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập:
riêng con trai có thể chủ động trong tình yêu, mà người phụ
“Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng lẽ” là biểu hiện rõ ràng
nữ cũng vậy, phải chủ động tìm đến tình yêu để sống được là
nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại
chính mình. Đây chính là thông điệp mới mẻ mà Xuân Quỳnh
dương. Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ
muốn gửi gắm đến bạn đọc qua khổ thơ này.
nhàng, êm dịu, khi có bão đi ngang biển động
Hơn cả những gì anh nghĩ, dẫu đó thực chất là trái tim mềm
sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái
yếu của em thì em vẫn muốn dùng sự mạnh mẽ của chính
đối cực của sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của
mình để hướng tới, để theo đuổi tình yêu duy nhất trong cuộc
tình yêu, có những khi rất bình yên, nhưng cũng có những
đời của mình. Những điều em muốn nói cùng anh là những
ngày bão tố. Ta cũng có thể hiểu hai câu thơ này theo một
điều không thể nào ngăn cách, bao mong mỏi, bao buồn vui
trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực của trái tim người
đau khổ cuộc đời cũng không thể ngăn nổi trái tim mềm yếu
phụ nữ khi yêu, một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi
hướng tới tình yêu. Bởi duy nhất chỉ có phương anh mới
vui, khi buồn, khi giận hờn, khi trách móc, khi hạnh phúc, khi
khiến trái tim em thổn thức. Thế nên Xuân Quỳnh mới viết:
tổn thương,... những cung bậc cảm xúc của tình yêu quả thật
rất diệu kỳ bởi một lẽ: “Tôi ghét bầu trời sau khung cửa bình yên
Con đường vắng người đi và hàng cây lộng gió
“Vì tình yêu muôn thủa
Tôi yêu dòng sông mùa nước lũ
Có bao giờ đứng yên”
Sông phá phách ngàn đời nhưng đỏ lặng phù sa”
Ý thơ chưa dừng lại ở đó, bởi nội tâm của người phụ nữ vốn
dĩ sâu sắc hơn những gì ta tưởng tượng . Hai câu thơ này còn
diễn tả sự yếu đuối tất yếu bên trong của người phụ nữ khi có
những mạnh mẽ che phủ bên ngoài. Suy cho cùng, sau tất cả
những hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời, những trái tim ấy vẫn thuộc
về trọn vẹn tâm hồn phái yếu. Chuyển đến hai câu thơ tiếp
theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân Quỳnh:
trong cuộc đời thì đó vẫn là khát khao mà chị mong mỏi:
Đặt vào hoàn cảnh ra đời của thi phẩm “Sóng” thì độc giả còn
có thể thấy được khát khao của nữ thi sĩ là tình yêu cá nhân
hòa cùng vào tình yêu Tổ quốc. Cất lên những nỗi lòng,
những tâm sự về tình yêu cá nhân rồi tinh tế đưa vào tình yêu
đất nước, tình yêu dân tộc. Những vần thơ nhẹ nhàng của nữ
thi sĩ cứ như vậy đi vào trong tâm thức mỗi độc giả để rồi:
“Lòng thơ của mỗi chúng ta, người mờ người tỏ, người đang
yêu, người đã yêu, đều từng thầm thu thầm phát thứ sóng đặc
biệt ấy : sóng Xuân Quỳnh”.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:
Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công. Bước vào
tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm
sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,...Vì vậy vốn
sống cũng như sự từng trải của ông in sâu vào trong sáng
tác... Đến với văn chương, ông gây được tiếng vang lớn qua
tác phẩm truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Năm 1943, Tô
Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh
Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo
chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện
Tây Bắc. Với hơn 60 năm lao động nghệ thuật miệt mài, tâm
huyết, với số lượng tác phẩm đồ sộ: 100 tác phẩm thuộc
nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký,
kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác... Tác phẩm
của ông đi vào lòng bạn đọc bởi lối kể chuyện có duyên, tự
nhiên, vốn am hiểu rộng, khéo léo đưa hiểu biết của mình
vào trong tác phẩm.
Để hiểu rõ hơn về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Vợ chồng A hoạt của họ, viết được một số truyện ngắn, trong đó có Vợ
Phủ” các em có thể tham khảo sưu tầm của team Học văn chị chồng A Phủ. Thực ra trong ngôn ngữ Mèo không có chữ Phủ
Hiên về bài trả lời phỏng vấn, tâm sự của chính tác giả khi chỉ có chữ Phữ thôi.
giãi bày về “đứa con tinh thần” của mình.
Đời sống văn hóa của người Mèo giờ đây vẫn mới lạ và bí ẩn
NHÀ VĂN TÔ HOÀI TÂM SỰ VỀ TÁC PHẨM đối với chúng ta. Họ có những truyền thống văn hóa độc đáo.
“VỢ CHỒNG A PHỦ” Nhưng trong Vợ chồng A Phủ, thân phận người đàn bà thật
không khác gì con trâu con ngựa. Điều đó có thật hay chỉ là
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được rút ra từ tập “Truyện Tây một cốt truyện hư cấu của tác giả?
Bắc” và là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này. Truyện
có 2 phần: Phần đầu kể chuyện Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; Nhà văn Tô Hoài
phần sau là thời kì ở Phiềng Sa, hai người gặp cách mạng rồi
trở thành du kích. Nhưng chương trình văn lớp 12 chỉ trích Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có
dạy phần đầu của tác phẩm. thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công
tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một
Thưa nhà văn, những năm đầu thập niên năm mươi, cuộc cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của
kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã có những thay đổi họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta
về chiến lược. Tinh thần và sức mạnh bất khuất của cả nước 1 tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ
được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và
ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội, những núi uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh,
đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho
em. Đời sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy trốn đi nơi
kháng Pháp thì là một. Nhưng dường như đời sống của người khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết
Mèo (H’Mông) đã để lại ấn tượng riêng biệt và sâu đậm cho của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ
ông? dần. Và tôi bắt tay vào viết.
Năm 1952, khi các hoạt động kháng Pháp tăng mạnh trên
chiến trường, quân ta đã dần đánh đuổi quân Pháp khỏi Sơn
La, Lai Châu, tôi là phóng viên của báo Cứu Quốc, báo Đại
Đoàn Kết bây giờ, được cử đi viết về các căn cứ cách mạng
và đời sống ở vùng mới giải phóng. Tây Bắc với những cánh
rừng bạt ngàn là nơi sinh sống chủ yếu của người Mường,
Thái, Mèo... và một số dân tộc nhỏ khác. Trong các dân tộc
anh em, người Mèo thường sinh sống ở những vùng núi cao
nhất và xa nhất. Đấy cũng chính là nơi có căn cứ cách mạng
sớm nhất. Người Mèo chống Pháp với một tinh thần bất khuất
và kiên cường kì lạ. Tôi chọn đi viết về đời sống dân tộc Mèo
là vì vậy. Tôi đi từ núi này sang núi khác, từ vùng Mèo Nghĩa
Lộ đến Lai Châu trong 5 tháng trời. Đường đi rất khó khăn,
hiểm trở, thiếu thốn đủ thứ cộng với khí lạnh của vùng Tây
Bắc, nhưng may mắn là đến bản nào cũng gặp cán bộ cách
mạng.
Từ 1950 – 1951, tôi và Nam Cao đã từng đi viết và sống với
đồng bào miền núi. Khó nhất là sự cách biệt ngôn ngữ, phải
có chung tiếng nói mới có thể hiểu được nhau. Người Mèo có
ngôn ngữ riêng, tuy nhiên vốn từ vựng của họ ít, nên tôi
không mấy khó khăn khi học tiếng của họ. Chỉ cần vài chục
từ là có thể giao tiếp được. Tuy vậy, vì ở vùng núi cao và xa
nên đời sống của họ trăm bề thiếu thốn. Hạt muối quý hơn
vàng. Có nơi 5-6 tháng ăn không tí muối nào. Khi bản có
việc, thịt bò, ngựa đều phải ăn nhạt. Tôi sống trong sự thiếu
thốn của người Mèo 5 tháng, đi sâu tìm hiểu đời sống, sinh
Nhận xét về tác giả và tác phẩm: III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:
1. "Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế Bố cục
lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay phân tích
lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh 1 Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị.
liệt". (Tô Hoài, “Tác phẩm văn học 1930 - 1945” trang 71). 2 Nhân vật A Phủ.
3 Chi tiết tiếng sáo.
2. “Ở "Vợ chồng A Phủ" nhà văn đã có sử dụng công và 4 Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
thành công trong miêu tả,trong dựng cảnh. Nói cách khác,
1. Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị:
ông đã dựng lên cho bạn đọc thấy được diễn biến tâm lí cùng
đời sống nội tâm của nhân vật qua hàng loạt chi tiết bên ngoài a.Ấn tượng ban đầu về nhân vật Mị:
như một dáng ngồi, một cách ăn mặc, một vài câu hỏi, một - Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở
cái nhìn, một bước đi đến một tảng đá hay một ô cửa sổ khi trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả với một
miêu tả như thế, do đã được nhập vào với số phận của nhân đoạn văn trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống
vật, thuộc được hoàn cảnh sống đầy biến động và đổi thay lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai
của nhân vật, nhà văn đã định ra được một cách tự nhiên một bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù
mạch lời kể chuyện vừa phù hợp với tâm lý riêng của họ,vừa quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới
mang sự gãy gọn của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại”. khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
- Nguyễn Quốc Luân + Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm
thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay
3. Bàn về kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài,
sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí
có ý kiến cho rằng: “Hành động cắt đứt dây mây cởi trói cứu
quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”.
A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật bất ngờ, đột
+ Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô tri, có cảm giác như
ngột, không thể dự đoán trước”, lại có người khẳng định: “Đó
người con gái ấy cũng không hề có một chút cảm xúc nào.
là một kết thúc tự nhiên, tất yếu”.
+ Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình ảnh
4. Nhận xét về nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của tảng đá ấy phải chẳng là tảng đá của số phận đang đè
của nhà văn Tô Hoài, tác giả Đỗ Kim Hoài khẳng định: “ nặng lên Mị.
Tấm lòng yêu thương của nhà văn vẫn nhận ra: bên trong + Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận đau khổ,
hình ảnh của một con rùa nuôi trong xó cửa kia, đang còn bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về số phận
một người”. của người con gái này.
b. Nguồn gốc, lai lịch, cuộc sống của Mị - trước khi bị
5. Nhận xét về nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ làm dâu gạt nợ:
của nhà văn Tô Hoài có ý kiến cho rằng: “Mị là một cô gái - Mị vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có
hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người con gái Việt Nam khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi: “thổi lá cũng hay như
nhưng lại có một số phận bất hạnh”. thổi sáo” .
- Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát
6. Bàn về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, có ý kiến cho rằng: khao yêu đương. Quả thế, Mị đã nhận được tình yêu và đã
“Thắp sáng ngọn lửa của khát vọng sống, Tô Hoài cũng làm khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước
bừng sáng giá trị nhân van cao cả của tác phẩm”. trước âm thanh hò hẹn của người yêu .
7. “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông - Cuộc sống tuổi thanh xuân, tương lai của Mị hứa hẹn biết
như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không bao điều tốt lành, tươi sáng. Khi mùa xuân về, Mị đã sống
Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có dịp tò mò hỏi ông về những giây phút tươi đẹp của tuổi thiếu nữ.
Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngò ông hiểu Hà Nội c. Bi kịch thân phận làm dâu gạt nợ:
sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là nhà Hà Nội học, dù ông không - Nguyên nhân: vì một món nợ truyền kiếp từ khi cha mẹ mới
nghiên cứu.” - Trần Đăng Khoa cưới nhau mà Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí - một
tên quan lại, địa chủ tham lam, sảo quyệt và tàn nhẫn ở Hồng
Ngài.
- Kể từ khi về làm con dâu nhà thống lí, Mị phải sống những
ngày tháng đau thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con
dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là bề tôi tớ không công. Mị
không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh
thần.
+ Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con - Tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng vào tâm hồn Mị “thiết tha,
vật, thậm chí không bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng bổi hổi” từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng có sức mời gọi
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc nào lớn lao đối với Mị: “Ta không có con trai con gái...”.
cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc làm giống nhau, tiếp - Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã, chiêng đánh ầm
nhau vẽ ra mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. ĩ và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
+ Bị giam hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của => Những yếu tố ngoại cảnh ấy không thể không tác động
nhà thống lí, Mị đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, đến Mị, đặc biệt là tiếng sáo. Tiếng sáo gọi bạn tình chính là
tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị bị tê liệt cả lòng yêu đời, âm thanh của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa,
sức sống lẫn tinh thần phản kháng, mất hết ý thức về thời nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào
gian, không gian: “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức sức sống vẫn còn
“mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
trong xó cửa”. Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
+ Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ - “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi
vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng chơi... Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng...Mà
thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường” Tiếng
Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác sáo được lặp lại nhiều lần, để rồi sau bao tháng ngày câm
Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và lặng, Mị cất tiếng nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương
sức sống của cô. đầy xao xuyến: “Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm
=> Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã nương / Tao chưa có con trai, con gái / Tao đi tìm người yêu”
được cất lên nhân danh quyền sống. Chế độ ấy thực sự đáng - Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát,
lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa
lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ.
sống. + Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người
d. Sức sống tiềm tàng của Mị khi dám chết, dám sống dù hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan
cảm thấy cuộc đời không còn bất cứ ý nghĩa nào nữa: lúc nào cũng không hay)
- Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt + Mị lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng
“đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. giỏi...), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một
- Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn con người, vẫn có cái quyền sống của một con người :
đó món nợ của người cha. Đây là một trong những biểu hiện “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có
đầu tiên của lòng ham sống – dám chết khi nghĩ rằng cuộc chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử,
đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Nhưng đến lúc có không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, - Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân
kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Đây cũng chính là một trong phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị
những hành động thể hiện sự khát sống của Mị, dám sống đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo
ngay cả khi trên cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa gì quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ
nữa. vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì
=> Đây là hai trong số những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón
trong trái tim của cô gái này, nhất định vẫn ẩn chứa một lòng trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn
ham sống rất lớn. nhớ lại nữa”.
e. Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân: - Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân
Sức sống tiềm tàng là khả năng sống từ sâu thẳm bên trong cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và
của con người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khắc suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong
nghiệt. Nó được ví như hạt mầm bị vùi trong cát bỏng, chỉ ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới
đợi một cơn mưa là nảy mầm thành cây đời xanh tươi. thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị
Ngoại cảnh: Mùa xuân về trên vùng cao Tây Bắc có ý xắn miếng mỡ, thắp sáng căn phòng u tối; quấn lại tóc, với
nghĩa như “một hoàn cảnh điển hình” làm khơi dậy ở thiên thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó,
nhiên và con người sức sống tiềm tàng. Mị đã làm như trong một giấc mơ
- Khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức sống và màu
sắc: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa xòe như con
bướm sặc sỡ, đám trẻ đợi Tết chơi quay, cười ầm lên trên sân
trước nhà...
- A Sử biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm, Mị không cảm thấy sợ hãi, chỉ cảm thấy một điều duy nhất
đánh rồi trói đứng Mị vào cột, tắt đèn đóng sập cửa lại. bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc ác”. Nghĩ thế, Mị cầm
Những hành động nhẫn tâm của A Sử dường như muốn đẩy dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có khựng lại vài giây rồi bất
Mị vào bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như
thế nhưng Mị thực tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng
ra với mình. Mị đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người
đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ,
trong cảm giác du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn tất cả những nỗi sợ hãi như cường quyền, bạo quyền hay thần
trong đầu của Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc quyền đều tan biến, chỉ còn lại trong Mị là một lòng ham
chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong sống vô cùng mãnh liệt, trào sôi.
thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động - Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả
ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện những khổ ải nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ
tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng A Châu, hai người được giác ngộ cách mạng và kết hôn với
sáo mà tay chân đau không cựa được. nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc
- Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra bảo vệ Tổ quốc.
cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và
cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng
con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo
chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng
hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng,
mà thậm chí còn câm lặng hơn trước .
g. Sự phản kháng táo bạo trong đêm đông cởi trói cho A
Phủ:
- Mùa đông trên núi cao dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen
không thể bỏ đó là sưởi lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là
người bạn, là tri âm, là tri kỷ, là thứ hiếm hoi mang tới cho
Mị một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô
đơn trên dẻo cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn
thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất
quyết không bỏ thói quen này.
- Khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô
cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết
đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê
dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong hoàn cảnh của Mị, cô gái này
thực sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ của người
khác, thậm chí, trái tim của Mị bây giờ còn mất hết những
cảm xúc, chỉ còn một trái tim đóng băng, lạnh giá vô cùng.
- Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A
Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng
làm tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ.
Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị
cũng đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm
không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước
mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót
thương cho chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết
nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy
có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình,
Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một
con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn
thương mình: “Mình là đàn bà ... chỉ còn biết đợi ngày rũ
xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết”.
Phân tích chi tiết Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông
bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy
Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị. “mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó
a. Trong đêm tình mùa xuân: quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị,
cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức
Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong
sống của cô. Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã lên tiếng tố cáo
cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả với một đoạn văn
chế độ phong kiến miền núi. Chế độ ấy thực sự đáng lên án,
trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra
bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của
thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng
niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
Những tưởng rằng cuộc đời Mị sẽ như thế cho đến khi chấm
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối
dứt ở nhà thống lí Pá Tra nhưng không phải vậy. Sức sống, sự
lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách giới thiệu
ham sống trong Mị đã phản kháng: khi mới bị bắt về làm dâu
tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm
gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt “đến hàng mấy tháng, đêm
thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu
nào Mị cũng khóc”. Mị đã từng muốn chết mà không được
ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng
chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Đây là một
sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Mị xuất hiện bên cạnh
trong những biểu hiện đầu tiên của lòng ham sống – dám chết
những vật vô tri, có cảm giác như người con gái ấy cũng
khi nghĩ rằng cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa.
không hề có một chút cảm xúc nào. Mị như một cái xác
Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị
không hồn, hoàn toàn mất hết ý niệm về không gian và thời
lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Đây cũng chính
gian. Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình
là một trong những hành động thể hiện sự khát sống của Mị,
ảnh của tảng đá ấy phải chăng là tảng đá của số phận đang đè
dám sống ngay cả khi trên cuộc đời này không còn bất kỳ ý
nặng lên Mị? Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận
nghĩa gì nữa. Đây là hai trong số những tín hiệu đầu tiên
đau khổ, bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về số
chứng tỏ rằng trong trái tim của cô gái này, nhất định vẫn ẩn
phận của người con gái này.
chứa một lòng ham sống rất lớn như trực chờ có đốn lửa nhen
Tô Hoài đã khắc họa hình tượng Mị là một cô gái Mèo trẻ nhóm sẽ bùng lên mạnh mẽ.
trung, xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo và có khát vọng tự do, khát
Và rồi đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã làm trỗi dậy khát
vọng yêu và được yêu vô cùng mãnh liệt. Cô “thổi lá cũng
khao được giải phóng, tự do trong Mị....
hay như thổi sáo”, đã bao lần trái tim Mị hồi hộp trước trước
Khi mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng như đã chết
âm thanh hò hẹn của người yêu. Mị hiện lên như một bông
trong Mị như có cơ hội hồi sinh bởi mùa xuân là mùa của cây
hoa xinh đẹp của núi rừng Tây Bắc.
cối đâm hoa nảy lộc, mùa của hội hè đình đám, mùa của gặp
Xinh đẹp, tài sắc là vậy thế nhưng bất hạnh ập đến ngay khi
gỡ, hò hẹn lứa đôi...Mùa xuân đến với Hồng Ngài đã được Tô
người con gái ấy đến tuổi trưởng thành phải gánh trên vai
Hoài miêu tả bằng những câu văn rất hay. Khung cảnh mùa
món nợ truyền kiếp từ cha mẹ. Vì món nợ ấy, Mị đã bị thống
xuân tươi vui tràn đầy sức sống và màu sắc: “cỏ gianh vàng
lý Pá Tra bắt về làm “con dâu gạt nợ”. Cuộc sống của một cô
ửng”, “những chiếc váy hoa xòe như con bướm sặc sỡ”,...
con dâu gạt nợ đã cướp đi tuổi thanh xuân dạt dào trong Mị.
Giữa giá rét của mùa đông nhưng người dân Hồng Ngài vẫn
Kể từ khi về làm con dâu nhà thống lí, Mị phải sống những
rực rỡ đón xuân.
ngày tháng đau thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con
Hòa với những sắc màu của mùa xuân là âm thanh náo nhiệt,
dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là bề tôi tớ không công. Mị
tưng bừng: “đám trẻ đợi Tết chơi quay”, “cười ầm lên trên
không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh
sân trước nhà”, tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng vào tâm hồn Mị
thần. Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con
“thiết tha, bổi hổi” từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng có
vật, thậm chí không bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng mình
sức mời gọi lớn lao đối với Mị: “Ta không có con trai con
cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc nào cũng chỉ
gái...” Tiếng sáo là âm thanh quen thuộc của vùng núi Tây
nhớ đi nhớ lại những việc làm giống nhau, tiếp nhau vẽ ra
Bắc, là tiếng lòng đắm say của trai gái Mèo trao gửi bạn tình
mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Bị giam
nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào
hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của nhà thống
miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức sức sống vẫn còn
lí, Mị đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, tâm hồn lạnh
tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này. Trong
lẽo, trống vắng. Mị bị tê liệt cả lòng yêu đời, sức sống lẫn
khoảnh khắc ấy, tiếng sáo như tác động mạnh mẽ đến tâm
tinh thần phản kháng, mất hết ý thức về thời gian, không
hồn Mị cùng với không khí mùa xuân tưng bừng, đang hừng
gian: “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, “mỗi ngày Mị
hực một sức sống mãnh liệt. Tất cả như khơi dậy, làm cho Mị
càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
bừng tỉnh.
Khi nghe tiếng sáo lặp lại nhiều lần, sau bao tháng ngày câm Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sáng đang trỗi dậy
lặng, Mị cất tiếng nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương mạnh mẽ trong lòng Mị, thắp sáng căn phòng u tối chính là
đầy xao xuyến, Mị ngồi nhẩm theo bài hát “Mày có con trai xua đi tăm tối cuộc đời mình, bừng lên ánh sáng hi vọng cho
con gái rồi / Mày đi làm nương / Tao chưa có con trai, con cuộc đời. Mị “quấn lại tóc, thay chiếc váy hoa với ở vách” ,
gái / Tao đi tìm người yêu”. Tiếng sáo cất lên từ trái tim rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như
tưởng chừng như khô cằn, chai sạn của Mị giờ đây, tiếng sáo trong một giấc mơ. Đó không chỉ là nhu cầu làm đẹp của bản
đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và khát vọng được yêu bấy lâu thân trước lúc đi chơi, đó còn là mình chứng rõ nhất về giá trị
nay Mị chôn chặt trong tim. Mị như bừng tỉnh, tiếng sao rung bản thân, lòng ham sống đang bừng dậy đầy mạnh mẽ, mãnh
lên trong trái tim Mị khiến cho nhận thức về cuộc sống ùa về. liệt khiến cho Mị bất chấp bạo quyền. Tâm hồn Mị lúc này
Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, như đang ngân lên khát vọng hạnh phúc, tự do không gì kìm
“uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cách uống “ực từng nén được.
bát” không phải là cách uống của người thưởng rượu, cũng Vậy nhưng, khát vọng sống của Mị lại bị vùi dập một cách
không phải cách uống của người thèm rượu bởi đã từ lâu Mị phũ phàng: A Sử về, biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi
không thèm khát rượu nữa rồi. Mị uống rượu là vì thói quen: chơi, hắn tức lắm, đánh rồi “trói đứng Mị vào cột nhà bằng
“ngày trước, Mị cũng uống rượu”, uống theo thói quen của cả một thúng sợi đay”, không những thế, nó còn “lấy tóc Mị
người Mèo nhưng cách uống “ực từng bát” lại giống như Mị cuốn lên xà nhà”, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những hành động
đang cố nuốt xuống những cay đắng, tủi nhục cùng uất hận nhẫn tâm của A Sử dường như muốn đẩy Mị vào bóng tối,
trào dâng. dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng thế nhưng Mị thực
Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra với mình. Mị
Mị lãng quên thực tại “lịm đi nhìn mọi người nhảy đồng”, đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những
“người hát mà không nghe, không thấy” và cuộc rượu tan lúc giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác
nào cũng không hay, lòng Mị như đang “sống về ngày trước”. du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong đầu của
Tô Hoài đã rất tinh tế khi dùng từ “sống” chứ không phải Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám
“nhớ”... Mị như thoát xác để tìm về những ngày xưa hạnh chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây
phúc. Mị lại nhớ về ngày trước “Mị thổi lá hay như thổi sáo”, trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức
“có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” và giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc,
quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay
cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn còn trẻ. Mị chân đau không cựa được “dây trói thít lại, đau nhức”. Nhưng
muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy.
Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa
phải ở với nhau”. tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng “chân ngựa
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân đạp vào vách”, nhai cỏ, gãi chân khiến “Mị thổn thức nghĩ
phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị mình không bằng con ngựa”.
đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo Khái quát:
quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng
vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì xé giữa quá khứ đẹp đẽ và thực tại đau khổ, giữa ước mơ
ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón hạnh phúc và nỗi tủi hờn về kiếp trâu ngựa. Đó là biểu hiện
trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn của tâm hồn yêu sống, thèm sống, sống một cuộc đời tự do,
nhớ lại nữa”. Chính mong muốn được chết trong Mị lại chính hạnh phúc bất chấp cường quyền chà đạp, vùi dập. Diễn biến
là biểu hiện cao nhất của khát vọng ham sống của con người tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng
bởi chỉ khi chết đi Mị mới được tự do. Tuy là muốn chết Ngài là một tâm trạng hồi hộp, vui sướng và đau khổ, ham
nhưng đó là hành động của người yêu cuộc sống thiết tha khi sống và muốn chết. Trong bóng tối nặng nề ấy, Tô Hoài đã
bị đẩy đến cảnh “sống không bằng chết”. không đề nhân vật nói câu nào và hành động cũng rất ít, phân
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn là những dòng nội tâm trỗi dậy, tuôn trào trong lòng Mị.
lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy Thông qua nhân vật Mị, ta thấy tác giả bộc lộ rõ nét tài năng
nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật Mị một cách chân thực,
giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời sinh động. Sự trỗi dậy của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy
điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị “xắn chưa thay đổi được số phận của cô nhưng đó là tiền đề quan
một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng”. trọng cho những đột biến lớn lao trong đời Mị để rồi dũng
cảm cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ, giải phóng cho chính
cuộc đời mình. Như nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói: “Một tia lửa
hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”.
b. Trong đêm mùa đông trên núi cao(cắt dây trói cho A Nghĩ thế, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có khựng
Phủ): lại vài giây rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Hành động “cắt” dây
trói là một quyết định mạnh mẽ, táo bạo, nhanh chóng và dứt
Sau đêm tình mùa xuân, Mị lại trở về với cuộc sống bình khoát. Dường như ta cảm nhận được Mị không chỉ cắt dây
thường như một cái xác không hồn. Mùa đông ở Hồng Ngài trói cho A Phủ mà còn đang cắt dây trói cho chính mình.
dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen không thể bỏ đó là sưởi Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên
lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là người bạn, là tri âm, là trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như
tri kỷ, là thứ hiếm hoi mang tới cho Mị một nguồn sáng ấm tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống
áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô đơn trên rẻo cao này. Dù và khát vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi
đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp sợ hãi như cường quyền, bạo quyền hay thần quyền đều tan
Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất quyết không bỏ thói quen này biến, chỉ còn lại trong Mị là một lòng ham sống vô cùng
“Tối nào Mị cũng ra sưởi lửa”. Khi chứng kiến tình cảnh của mãnh liệt, trào sôi.
A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước
mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả
như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong những khổ ải nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ
hoàn cảnh của Mị, cô gái này thực sự đã quá khổ để có thể A Châu, hai người được giác ngộ cách mạng và kết hôn với
đồng cảm với nỗi khổ của người khác, thậm chí, trái tim của nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc
Mị bây giờ còn mất hết những cảm xúc, chỉ còn một trái tim bảo vệ Tổ quốc.
đóng băng, lạnh giá vô cùng. Sống cùng những chà đạp, tủi
nhục ở nhà thống lý, Mị đã rơi vào trạng thái trơ lì cảm xúc. Khái quát:
Ở đây Tô Hoài không nhằm chỉ trích sự vô cảm của Mị mà Hành động cắt dây trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi
thông qua Mị ông muốn tố cáo, lên án sự tàn bạo của gia đình Hồng Ngài không phải hành động mang tính bản năng mà đó
thống lý đã biến một cô gái trẻ trung yêu đời trở nên câm là sự trỗi dậy của lòng khát vọng sống tự do mãnh liệt. Hành
lặng, tâm hồn tê dại. động táo bạo và đầy bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của một sức
sống tiềm tàng khi đã trỗi dậy để chống lại cường quyền, thần
Chính nhờ ngọn lửa mà Mị trông sang A Phủ “Đêm ấy A Phủ quyền để giải phóng chính mình. Hành động cắt dây trói cùng
khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài của Mị có vẻ bất ngờ nhưng rất
xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm phù hợp tâm lí con người với quy luật cuộc sống “tức nước
tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị vỡ bờ”. Người đọc cũng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc
nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng của nhà văn Tô Hoài khi ông luôn phát hiện và khẳng định vẻ
đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không đẹp tiềm ẩn của con người. Với nhân vật Mị, giáo sư Trần
biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của Đình Sử đã nhận xét: “ Đây là nhân vật thành công bậc nhất
A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương trong văn xuôi Cách mạng đương đại.”.
cho chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết nhận ra
mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người
nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần
có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người
cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình:
“Mình là đàn bà ... chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi
còn người kia việc gì mà phải chết”. Mị không cảm thấy sợ
hãi, chỉ cảm thấy một điều duy nhất bây giờ: “Cha con chúng
nó thật độc ác”. Khi một kể đang trong tình trạng mất hết ý
thức lại nhận ra nguyên nhân cái khổ mà mình phải gánh chịu
thì đúng là một cuộc lộn ngược dòng của ý chí. Nó đã cho
người đọc thấy được chắc chăn lần trỗi dậy này không dừng
lại như đêm tình mùa xuân mà sẽ là một cuộc phản kháng
mãnh liệt khi Mị nhận thức rất rõ nguyên nhân của nỗi thống
khổ.
2. Nhân vật A Phủ: Sau đó thống lí vừa gán nợ cho A Phủ một cách trắng trợn,
vừa bày cách để A Phủ trả nợ, cái cách vô lí và vô nhân đạo:
A Phủ là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ nhỏ do trong một trận “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ.
đại dịch cả gia đình A Phủ đều chết chỉ một mình A Phủ sống Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền thì tao
sót vậy nên ngay từ nhỏ A Phủ đã bơ vơ không nơi nương bắt mày làm con trâu con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con đời
tựa. Đó là sự mất mát đầu tiên nhưng lại vô cùng to lớn và cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Như
quá sức chịu đựng đối với một đứa trẻ. Sự bất hạnh không vậy dưới hình thức cho vay này, A Phủ chính thức trở thành
dừng lại ở đó, A Phủ lớn lên còn trở thành một món hàng để tôi đòi cho nhà chúa đất phong kiến.
người làng đem đổi lấy thóc khi người ta đói bụng (trái ngược
với Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành dù Từ sau đám xử kiện, A Phủ chấp nhận làm con ở gạt nợ cho
cũng mồ côi nhưng lại được lớn lên trong vòng tay yêu nhà thống lí, không còn nhớ đến những tháng ngày theo bạn
thương, che chở của buôn làng). đi chơi hội các làng, suốt năm, suốt tháng vùi đầu vào công
việc, bị bóc lột tàn tệ.
Tuổi thơ bất hạnh, cơ cực là vậy nhưng khi trưởng thành A
Phủ vẫn là một chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi, là niềm Khi bị trói đứng vào cột, đứng trước cái chết đang cận kề, A
ao ước của biết bao cô gái trong làng “đứa nào được A Phủ Phủ ban đầu không chấp nhận, đến đêm anh “cúi xuống, nhay
cũng bằng được một con trâu tốt trong nhà”. Hoàn cảnh xuất đứt hai vòng mây” nhưng đó chỉ là sự cố gắng vô ích, vì sáng
thân đặc biệt nên A Phủ không có bố mẹ, không có nhà, mai ra cổ anh lại thêm thòng lọng, dường càng chặt hơn, càng
không có ruộng vì vậy nên A Phủ không lấy được vợ. Cuộc tàn bạo hơn. Bị trói, bị bỏ đói, gắng gượng trong vô vọng
sống A Phủ là tiếp nối bất hạnh của những con số không. Đó suốt mấy ngày đêm, chàng thanh niên khỏe mạnh ngày nào
là cuộc sống triền miên trong nghèo khổ không có tương lai. nay đã không còn chút sức lực, chỉ biết trút dòng nước mắt
tuyệt vọng. Đến khi được Mị cắt dây trói, A Phủ như một cái
A Phủ xuất hiện bất ngờ trong đám đánh nhau của trai làng xác trực “ngã khuỵu xuống, không bước nổi”.Nhưng khi khát
bên với A Sử. A Sử vào làng tìm đám chơi có tiếng sáo, tiếng vọng sống một lần nữa được đánh thức mãnh liệt, A Phủ đã
khèn nhưng vì đến muộn nên phải đứng ngoài. A Sử và đám quật sức chạy, quyết tâm vùng chạy để thoát khỏi gông cùm,
bạn đã tìm cách gây sự và bị A Phủ đánh cho một trận nên xiềng xích và đến Phiềng Sa, chàng trai gan góc, táo bạo ấy
thân.Nhà văn đã miêu tả sức mạnh của A Phủ ngay từ lần đã trở thành tiểu đội trưởng du kích.
xuất hiện này: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném
con quay rất to vào mặt A Sử” rồi “xộc tới ném cái vòng cổ, Khái quát:
kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Nhưng trong Mặc dù số phận đầy đau khổ và bất hạnh nhưng ở A Phủ vẫn
cuộc chiến chống cường quyền hùng dũng mà đơn độc này, A tiềm tàng những phẩm chất cao đẹp tiêu biểu cho vẻ đẹp của
Phủ đã thua cuộc. Anh bị bắt sống, trói chân tay và xọc gậy những con người lao động vùng núi cao Tây Bắc. Thông qua
mang về nhà thống lí Pá Tra. nhân vật A Phủ người đọc cũng thấy được bút pháp khắc họa
nhân vật phong phú, tài hình ở Tô Hoài. Nếu như với nhân
A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra bắt trói, đánh đập vô nhân vật Mị chủ yếu là được khắc họa từ thế giới nội tâm bên trong
đạo, phạt vạ dã man, vô lí và trở thành người ở trừ nợ cho nhà đầy tinh tế thì đối với nhân vật A Phủ lại chủ yếu được khắc
thống lí. A Phủ chịu trói quỳ giữa nhà cho bọn tay sai đánh họa từ những điểm nhìn bên ngoài với những hành động
tới tấp hết trận này đến trận khác, đến nỗi thân tàn ma dại: mạnh mẽ, đầy ý nghĩa, Đó chính là thành công trong nghệ
“mắt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”, “đầu thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Cứ xong một lượt đánh
các quan lại chửi, lại hút, khói thuốc phiện tuôn ngập các cửa
sổ, cứ như thế “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh,
càng đánh, càng chửi, càng hút”. Qua bữa tiệc phạt vạ, nhà
văn đã vạch trần bản chất bất công, thối nát của bọn thống trị
phong kiến và số phận thảm thương của người dân miền núi
trước Cách mạng.Sau khi bị đánh đập tàn bạo, A Phủ bị bọn
thống lí, chức việc trói chặt vào kiếp đời nô lệ. Đầu tiên
chúng buộc tội cho A Phủ vì đánh con quan nhưng làng tha
cho tội chết, chỉ bắt nộp vạ.
IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO:
1. Mở bài:
Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng lại gắn bó sâu sắc
với đất và con người Tây Bắc, ông đã từng thốt lên rằng:
“Đất và người Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều
quá”. Vợ chồng A Phủ chính là kiệt tác được ra đời từ những
nỗi nhớ thương ấy. Tác phẩm được viết sau chuyến đi thực tế
của nhà văn ở vùng Tây Bắc vào năm 1952, in trong tập
“Truyện Tây Bắc”. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô
Hoài nói riêng và văn xuôi chống Pháp nói riêng. Tác phẩm
là bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của
người dân nghèo miền núi trong ách áp bức, bóc lột của thế
lực phong kiến thực dân, đồng thời tác phẩm cũng là bài ca
về sự sức sống và khát vọng tự do của người dân miền núi.
2. Kết bài:
Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận cùng khổ của Mị và
A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối,
ngột ngạt của người dân miền núi Tây Bắc dưới chế độ phong
kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức, tước
đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền sống của những người
dân nghèo vô tội. Quá trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng
bản thân, đi theo cách mạng của Mị và A Phủ cũng chính là
quá trình giác ngộ Cách mạng của đồng bào dân tộc miền núi.
Truyện ngắn không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của Tô
Hoài khi bênh vực, đồng cảm với số phận con người mà còn
thể hiện niềm tin của tác giả vào Cách mạng, khẳng định
chỉ có đi theo Cách mạng con người mới có thể thực sự tìm
thấy tự do, phá bỏ xiềng xích áp bức để hướng đến cuộc sống
hạnh phúc. Tô Hoài đã làm đúng thiên chức của một nhà văn
như Nguyễn Minh Châu từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời
để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực”.
Văn bản: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Nguyễn Minh Châu được xem là người tiên phong trong
-Nguyễn Minh Châu- việc đổi mới nghệ thuật truyện ngắn. Chiếc thuyền ngoài xa
là tác phẩm tiêu biểu cho truyện ngắn về đề tài đời tư - thế sự
Tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn sau 1975 của ông. Những trang đời sinh động, đầy nghịch lý
Nguyễn Minh Châu, giúp nhà văn đến gần hơn với bạn đọc.
đã hắt bóng vào những trang văn của Nguyễn Minh Châu.
Đồng thời là áng văn tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của
ông sau năm 1975. Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp Qua tác phẩm, người đọc thấy được những vấn đề phức tạp
của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là của đời sống, kể cả bi kịch số phận con người. Nguyễn
nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để Minh Châu quan niệm viết văn là đi tìm “hạt ngọc ẩn” trong
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám tâm hồn con người, dù nhân vật được đặt giữa những bộn bề,
phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời phức tạp, giữa lấm láp đời thường. Nguyễn Minh Châu từng
thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và khẳng định và nhấn mạnh thiên chức của nhà văn: “Nhà văn
sống cùng cuộc đời.
(Lê Ngọc Chương - “Chiếc thuyền ngoài xa”, một ẩn dụ của Nguyễn Minh Châu) tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc giống
như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân
tường...”. Nguyễn Minh Châu từng tâm sự: “Nhà văn phải là
- Là cây bút đi tiên phong cho quá trình đổi mới văn
học như nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: “Nguyễn một thứ côn trùng lấy cây rau mà thăm dò không khí thời đại.
Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường Nhưng nhà văn muốn có tầm cỡ thời đại thì phải ngụp sâu
tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. vào dân tộc mình, nhân dân mình...” Nguyễn Minh Châu
Ông luôn ý thức về ngòi bút của mình, luôn trăn trở, quan niệm nghệ thuật và cuộc sống phải có mối liên hệ chặt
tìm tòi, đổi mới cách viết cũng như phát hiện những chẽ. Sau 1975, ông đã phê phán lối viết “tráng lên một lớp
điều mới mẻ, có ý men trữ tình” cho hiện thực đời sống. Theo ông, “viết văn là
nghĩa trong cuộc sống để thể hiện.
phải đào xới tới tận cùng cái đáy của cuộc đời”, người nghệ sĩ
- Quá trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu: chia làm
2 chặng: phải biết “vất bỏ thói quen mã hóa hiện thực đời sống”,
Trước 1975: chủ yếu là những tác phẩm mang tránh “dễ dãi về cách nhìn và phô bày đời sống một cách
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. giản đơn”. “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng
Từ Sau 1975: tác phẩm của ông chuyển hẳn sang cảm tâm mà tâm điểm là con người”.
khó hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lý nhân => Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đã chuyển
a sinh. hóa vào thực tiễn sáng tác mà Chiếc thuyền ngoài xa là một
- Trong thời kì nào Nguyễn Minh Châu đều sáng tác
trong những tác phẩm tiêu biểu cho những quan niệm ấy.
theo phương châm “Đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm
hồn mỗi con người” và ông luôn có cái nhìn thấu hiểu,
Câu chuyện thú vị về Nguyễn Minh Châu:
trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu đối với con người.
- Là cây bút có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, Nguyễn Minh Châu bị “gãy”
cuộc sống của những người lính ngoài chiến trường
cũng như cuộc sống của những người dân chài sau Một dịp nhà văn Nguyễn Minh Châu về quê và được một cán bộ
chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một bức tuyên huấn dẫn đến trường học nói chuyện văn chương. Nhà văn
tranh góc cạnh có chiều sâu, có sức khái quát cao về
mới nói được một chập thì các cử tọa tỏ ra “không thèm nghe”,
cuộc sống đa diện, nhiều chiều luôn vận động và phát
triển. cứ làm việc riêng, mỗi lúc một ồn ã, rồi thì kẻ ra người vào khá
- Nguyễn Minh Châu quan niệm nghệ thuật và cuộc nhốn nháo. Nhà văn cũng đã thấy ngao ngán, chưa biết xử sự thế
sống phải có mối liên hệ chặt chẽ. nào thì đồng chí cán bộ tuyên huấn dẫn nhà văn đi nói chuyện
xông lên bục “quảng cáo” về nhà văn rất kêu, nào Nguyễn Minh
Châu là nhà văn lớn, nổi tiếng khắp nước và khắp... thế giới; nào
Nguyễn Minh Châu làm đến chức Ủy viên Ban chấp hành Hội
Nhà văn... Người cán bộ bước xuống, Nguyễn Minh Châu sau
một lát né sang một bên, tiếp tục ra đứng trước micro đăng đàn.
Nhưng tình thế không hề xoay chuyển tốt lên, ngược lại thêm
xấu đi. Nguyễn Minh Châu nghĩ, lúc này thượng sách là đánh
bài chuồn, bèn “nói tóm lại” vắn tắt ít phút, cám ơn mọi người
“đã chú ý lắng nghe, “hẹn một dịp khác gặp lại”... rồi rút lui vội.
Điều thú vị là khi Nguyễn Minh Châu kể lại cho bạn bè về cái
lấn đăng đàn “bị gãy 100%” của mình như trên, nhà văn không
hề tỏ ra mảy may đau khổ gì sất, ngược lại còn có vẻ... khoái.
(Nguồn: Văn Nghệ Quân Đội số 651)
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: Để hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa", các em có thể tham khảo bài báo
1. Hoàn cảnh sáng tác – xuất xứ: dưới đây được ghi bởi TRẦN ĐỨC TÀI ( BÁO GIÁO DỤC
VÀ THỜI ĐẠI)
- Từ những năm 80 của thế kỉ XX,từ cảm hứng sử thi lãng
mạn của những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, cảm hứng GD&TĐ - Nếu cái Đẹp là sự sống thì Mẫu tính là nguồn cội
sáng tác của nhà văn dần dần chuyển sang tính chất triết luận của sự sống. Hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn
về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản con người của Nguyễn Minh Châu thì viên ngọc quý giá nhất,
chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc sáng nhất là Mẫu tính. Nhà viết kịch người Anh, George
nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc Bernard Shaw từng cho rằng: Vũ trụ có nhiều kỳ quan nhưng
thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm ra đời trong kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ.
mạch cảm xúc này của tác giả.
- Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu trong tập Bến quê, Mẫu tính là tất cả cái phần sâu thẳm như một thứ thiên phú
sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tập truyện ngắn từ của tâm hồn nữ giới, là bản năng sinh ra sự sống và bản năng
truyện Bức tranh trở đi, in năm 1987. hi sinh cho sự sống bằng cả cưu mang, chăm lo, che chở và
xả thân. Nếu cái Đẹp là sự sống thì Mẫu tính là nguồn cội của
Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của tác phẩm sự sống. Hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn
như sau: con người của Nguyễn Minh Châu thì viên ngọc quý giá nhất,
● Tháng 8 năm 1983: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn sáng nhất là Mẫu tính.
Minh Châu được sáng tác, in trong tập “Bến quê”.
● 1987: Sau đó, tác phẩm vinh dự được nhà văn dùng để đặt 1. Lời nhắn gửi quan trọng nhất của một truyện ngắn thường
tên cho cả tập truyện ngắn xuất bản năm 1987. cất lên từ tình huống truyện, từ những gì hiện ra như một
khoảnh khắc của đời sống mà tại đó xuất hiện một tương
2.Ý nghĩa tư tưởng, nhan đề: quan bất thường nào đấy.
- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho Cái bất thường của tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai là một nghịch lý oái oăm, trớ trêu: Một bức tranh mực tàu của
đoạn sáng tác thứ hai. danh họa thời cổ, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích,
- Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp cho nhà văn nhận ra đời nhưng khi nhìn gần, nhìn vào bên trong thì như một câu
sống con người cả ở những sự kiện bề nổi nhưng khuất lấp chuyện cổ đầy quái đản - đó là thảm trạng bạo hành tồi tệ, dã
trong bề sâu của nó, nhận ra những quy luật tất yếu lẫn những man, nhức nhối của chính cái gia đình sống trên chiếc thuyền
ngẫu nhiên, may rủi đầy bất trắc và khó lường trước của đời đó: Chồng đánh vợ, con đánh bố; trong cảnh đói nghèo triền
sống. miên - những khi ông trời làm động biển, suốt hàng tháng, cả
- Ông luôn day dứt về việc con người phải chịu đựng, phải nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
chấp nhận những nghịch lí mà lẽ ra là không đáng có trong muối...
một cuộc sống tốt hơn.
- Nhan đề: Chiếc thuyền trên biển sớm mờ sương là hình ảnh Đối diện với nghịch cảnh ấy, nhân vật Phùng - nghệ sĩ nhiếp
đẹp của nghệ thuật nhưng khi vào gần bờ thì người đọc thấy ảnh vỡ lẽ: Hóa ra cái đẹp bề ngoài thường che lấp cái xấu ở
được đó còn là nơi sinh sống của một gia đình làng chài bên trong. Đến với cuộc sống, tìm hiểu cuộc sống mà chỉ
nghèo khổ. Cuộc sống trên thuyền là sự đau khổ về đói nghèo đứng ngoài, đứng từ xa để ngắm nhìn, anh sẽ chỉ thấy được
và nạn bạo hành. => Chiếc thuyền ngoài xa không chỉ là một cái bề ngoài, không bao giờ đến được, thấy được sự thật cuộc
hình ảnh đẹp của nghệ thuật, mà người nghệ sĩ phải nhìn đời.
ngắm nó trong một cái nhìn đa diện nhiều chiều, nhìn nó
trong mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống để phát hiện Nghệ thuật phản ánh đời sống mà chỉ chụp ảnh cái bề ngoài
ra bàn chất thật về cuộc sống và con người. dù đẹp đến mức cảnh đắt trời cho, vẻ đẹp toàn bích đi nữa
cũng chỉ là thứ nghệ thuật giả dối, cái đẹp giả dối, là cái đẹp
phi đạo đức.
Khi hướng tới đối tượng trung tâm của mình, tác phẩm nghệ Người đàn bà ấy không phải cam chịu, nhẫn nhục vô lý khi
thuật không chỉ thể hiện đời sống và phẩm chất của con mà hoàn cảnh sống không để cho chị một sự lựa chọn khác.
người, không chỉ đặt ra và giải quyết những vấn đề nảy sinh Là người thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời cho nên
trong quan hệ giữa con người và con người, giữa con người đối với người chồng vũ phu, tàn độc, chị là người thấu hiểu
và tự nhiên mà quan trọng hơn là tìm hiểu, khám phá và phát nên độ lượng, bao dung.
hiện ra những bí ẩn nằm trong chiều sâu những chiều kích
khác nhau của con người - một thực thể kì diệu và huyền bí. Đối với đàn con, chị là người mẹ giàu đức hi sinh, thể hiện
tình mẫu tử thật xúc động. Chị nói: “Ông trời sinh ra người
Hơn bốn mươi năm trước, Nam Cao đã đặt vấn đề nhìn người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho
trong truyện ngắn Lão Hạc: Chao ôi! Đối với những người ở nên phải gánh lấy cái khổ”.
quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ Chị mặc nhiên thừa nhận: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi (...) không bao giờ ta sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Vẫn biết đó là
thấy họ là những người đáng thương. Đó là lời của nhân vật cái sự lạc hậu nhưng đó cũng là điểm bám víu, là cội nguồn
ông giáo - một hóa thân của Nam Cao, đã chỉ ra: Phải nhìn sức mạnh để người đàn bà ấy cứng cỏi chấp nhận hiện thực,
người, phải tìm hiểu con người bằng đôi mắt tình thương. và sống tiếp.
Với đôi mắt ấy mà ông giáo cũng phải trải qua bao lần ngộ
nhận rồi vỡ lẽ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, cho đến khi Người mẹ nặng gánh mưu sinh ấy luôn tìm mọi cách để bảo
nhân vật từ giã cõi đời mới hiểu được một con người. Hành vệ thể xác và tâm hồn của con trẻ, chị chỉ khóc khi con bị
trình cố mà tìm hiểu để hiểu, để yêu thương con người mới đánh, và chị cười khi được ngồi nhìn đàn con chúng nó được
gập ghềnh làm sao! ăn no. Tình mẫu tử được chị ý thức như một thiên tính đương
nhiên của người phụ nữ. Những tổn thương, đau đớn của thân
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, một tác xác và cả tâm hồn rỉ máu, chị đành cam chịu và hóa giải nó
phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. bằng tình thương con, bằng trách nhiệm chỉ sống cho con.
Con người với tư cách là đối tượng của nhà văn cố mà tìm Vậy nên, chị từ chối quyết liệt những lời đề nghị ly hôn của
hiểu trong Chiếc thuyền ngoài xa là người đàn bà hàng chài. Đẩu và Phùng, vì ly hôn chị sẽ không còn bị đòn roi nhưng
Đó là nhân vật có sự đan bện, hợp thành của nhiều nghịch lý. đổi lại là một gia đình tan nát - điều khủng khiếp nhất của
Nhân vật Phùng - nghệ sĩ nhiếp ảnh, cùng với Đẩu - vị Bao một người mẹ. Chị không có bất cứ một sự lựa chọn nào
Công của cái phố huyện vùng biển nghe người đàn bà kể về khác.
cuộc đời mình, cùng một lúc thốt lên: “Không thể hiểu
được!” Quả thật là khó cắt nghĩa nổi khi mà một người đàn Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu sáng tạo nên
bà cần cù, đảm đang, một người vợ tốt mà vẫn bị bạo hành vô trong cuộc đời sáng tác của mình thì hình tượng người phụ nữ
cùng tàn bạo: Ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn. để lại ấn tượng sâu sắc nhất, là những hình tượng để đời, đó
Trong hoàn cảnh ấy người đàn bà vẫn cam chịu, không chống là các nhân vật: Quỳ trong tác phẩm Người đàn bà trên
trả, không kêu van, không trốn chạy, không khóc lóc, tự chuyến tàu tốc hành, nhân vật Thai trong Cỏ lau và người đàn
nguyện chịu đòn roi như là một phần không thể thiếu của bà không tên trong Chiếc thuyền ngoài xa.
cuộc đời mình. Mỗi nhân vật một số phận, một vẻ đẹp riêng, những diện mạo
Ấy vậy mà khi thằng Phác - con của chị, chống lại cha - kẻ vũ sâu sắc và phong phú đều là kết tinh tính cách Việt, là khuôn
phu tàn độc, để che chở cho mẹ thì chị lại khóc lóc, van xin mặt nghệ thuật đích thực thuộc phần ám ảnh nhất của Nguyễn
con. Chị thà chịu ở tù chứ nhất định không chịu bỏ kẻ hành Minh Châu. Vẻ đẹp cốt lõi nhất, cũng thật thâm trầm, nhuần
hạ mình. Người đàn bà ấy chấp nhận cả những điều tưởng nhị chính là MẪU TÍNH.
như phi lý: Trên thuyền phải có một người đàn ông, dù hắn Như ai đó đã từng tôn vinh: Vũ trụ có nhiều kỳ quan nhưng
man rợ, tàn bạo. Và khi được hỏi: Cả đời chị có lúc nào thật kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ. Mẫu tính - đó
vui không? thì chị khẳng định: “Có chứ!” là bản năng chăm lo, bảo vệ lấy sự sống của con người do
Giải mã những nghịch lý trên đây ta nhận được những kết quả người mẹ mang nặng đẻ đau sinh ra; là tình thương bẩm sinh
bất ngờ, một sự đột biến trong nhận thức về con người như của nữ tính; là tất cả cái phần sâu thẳm như một thứ thiên phú
nhân vật Đẩu trải nghiệm: Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu của tâm hồn nữ giới.
vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển.
Mẫu tính là bản năng sinh ra sự sống và bản năng hi sinh cho Đằng sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến không thể nào hiểu
sự sống bằng cả cưu mang, chăm lo, che chở và cả xả thân được lại là một bản lĩnh kiên cường, là sự can đảm của người
nữa. Nếu cái Đẹp là sự sống thì Mẫu tính là nguồn cội của sự mẹ chắt chiu khát vọng hạnh phúc đời thường.
sống. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
là đi tìm hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người thì viên Và sau vẻ quê mùa, thất học của một người đàn bà lao động
ngọc quý giá nhất, sáng nhất là Mẫu tính. bình thường lại là sự thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
Trong sâu thẳm trong tâm hồn người đàn bà hàng chài quê Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình, dáng vẻ đến
mùa, lam lũ, nhẫn nhục, cam chịu Mẫu tính chính là những cử chỉ, lời nói, hành động... nhân vật người đàn bà hàng chài
hạt ngọc lấp lánh. Hóa ra, cái xấu ở bên ngoài, ở bề nổi cũng đã trở thành biểu tượng đầy ám ảnh giúp nhà văn Nguyễn
thường che lấp những cái Đẹp, những cái cần được chia sẻ, Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm
cảm thông ở bề sâu. cảm thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất
Không chỉ có Phùng, Đẩu - người trong cuộc mới vỡ lẽ ra mà hạnh, khốn khổ trong cuộc sống đói nghèo, tăm tối; đó là
người đọc cũng sửng sốt, bàng hoàng để rồi vỡ ra cả một thế niềm cảm thông, thấu hiểu với số phận con người trong cuộc
giới cảm xúc vừa thương cảm, đau đớn, xót xa, vừa yêu mưu sinh nhọc nhằn trong hành trình gian nan, đau khổ kiếm
thương, trân trọng và cảm phục. tìm hạnh phúc và sự bình yên, và đó còn là niềm trân trọng,
3. Trước câu chuyện của người đàn bà hàng chài, chánh án tin yêu với những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách
Đẩu đã phải rời khỏi chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những những con người nhân hậu, vị tha, sâu sắc và dũng cảm.
chồng hồ sơ, giấy má, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và Những ẩn khuất sau câu chuyện của người đàn bà hàng chài
đầy suy nghĩ. Thế rồi, một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị sẽ luôn sống trong lòng người đọc, đánh thức trách nhiệm của
Bao Công của cái phố huyện vùng biển. mỗi người với cuộc đời này.
Còn nghệ sĩ Phùng, anh đã có được tấm ảnh ưng ý cho bộ lịch
năm đó. Tấm ảnh đen trắng đã được treo ở nhiều nơi, nhất là
trong các gia đình sành nghệ thuật, nhưng mỗi lần ngắm kĩ,
người nghệ sĩ vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ anh nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và
nhìn lâu hơn, anh lại thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những
đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa
thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới
suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên
mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông...
Thiện chí, lý thuyết cần phải gắn với thực tế. Triết lý về cách
nhìn con người và cuộc đời, triết lý về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc sống, vai trò của người nghệ sĩ trong sáng tạo...
đó là tất cả những chiêm nghiệm sâu sắc mà Nguyễn Minh
Châu đem đến cho người đọc trong thiên truyện Chiếc thuyền
ngoài xa.
Nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa được nhà văn Nguyễn Minh Châu khắc họa
sắc nét theo lối tương phản giữa bên trong và bên ngoài, giữa
thân phận và phẩm chất. Vẻ đẹp của hình tượng là những ẩn
khuất mà mới nhìn khó có thể đoán định. Đằng sau vẻ xấu xí,
thô kệch là một tầm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức
hi sinh.
Nhận xét về tác giả và tác phẩm: III. NỘI DUNG TÁC PHẨM:
1. Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ
kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức
khám phá tất cả những cái đó. (Nguyễn Minh Châu)
2. Trên con đường đi tới chủ nghĩa hiện thực, đôi khi chúng
ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài
của chính mình. (Nguyễn Minh Châu)
3. Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật 1. Nhân vật Phùng - Hai phát hiện của người nghệ sĩ:
nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và
rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm a. Khái quát:
ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá - Những trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư
những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì duy nghệ thuật, về thiên chức của người nghệ sĩ đã được thể
phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống hiện đầy tinh tế qua nhân vật Phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh
cùng cuộc đời (Lê Ngọc Chương - “Chiếc thuyền ngoài xa”, trong chuyến đi thực tế đã khám phá, chiêm nghiệm nhiều
một ẩn dụ của Nguyễn Minh Châu) điều sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
- Anh là người say mê công việc và có ý thức trách nhiệm với
4. Nhân quyền “giống như món trang sức đắt tiền trong tủ nghề nghiệp của mình.
kính mà những đôi bàn tay lam lũ không thể chạm vào”. - Anh sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để săn lùng những bức ảnh
(Trích bài viết “Chiếc thuyền ngoài xa: sự xa xỉ quyền của đẹp, những “cảnh đắc trời ban”.
con người) b. Hai phát hiện của Phùng:
Phát hiện thứ 1 của Phùng đầy vẻ thơ mộng:
5. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc
- Để có được tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu
khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh,
cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đã tới một vùng biển
xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không
miền Trung từng là chiến trường cũ của anh.
biết đâu là bến bờ hạnh phúc. (Ngọc Huy)
- Đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ
6. Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương.
thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường - Tâm trạng của người nghệ sĩ: người nghệ sĩ trở nên “bối
rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này. rối”, cảm thấy “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”,
(Nhà văn Nguyễn Khải) trong khoảnh khắc ấy, anh phát hiện ra “cái đẹp chính là đạo
7. Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống đức”, “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá
hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý. => Đó là phút giây hạnh phúc tột đỉnh bởi người nghệ sĩ đã
(Nhà văn Tô Hoài) cảm nhận được cái chân thiện mĩ của cuộc đời.
Phát hiện đầy nghịch lí, trớ trêu như trò đùa của cuộc
sống:
- Cảnh tượng: người đàn ông đánh đập vợ một cách thô bạo,
dã man, đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy
hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát.
- Thái độ của người nghệ sĩ trước cảnh tượng này: kinh ngạc
đến sững sờ, anh không ngờ đằng sau cái vẻ toàn bích của tạo
hóa lại có cái xấu, cái ác đến mức không thể tin được. Không
thể chịu được khi thấy cảnh tượng ấy, Phùng đã vứt chiếc
máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới.
- Bản chất người lính khiến anh không thể làm ngơ trước bạo
hành.
Đó là một khung cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ, lung linh, huyền ảo
Ý nghĩa của hai phát hiện: trong màn sương sớm. Từ góc nhìn của người họa sĩ nhiếp ảnh,
- Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, bạn đọc nhận thức Phùng hài lòng vì những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức
được rằng: ảnh chiếc thuyền ngoài xa là sáng tạo nghệ thuật đích thực của một
đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mê sáng tạo, là
+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, không phải bao giờ
“phút linh” một đi không trở lại. Đối với người nghệ sĩ, không gì
cũng đẹp, cũng là nghệ thuật mà nó chứa đựng nhiều
hạnh phúc hơn khi được khám phá và sáng tạo, cảm nhận được cái
nghịch lí, mâu thuẫn giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và đẹp. Khi được chiêm ngưỡng bức ảnh nghệ thuật của tạo hóa, người
cái ác. nghệ sĩ trở nên “bối rối”, cảm thấy “trong trái tim như có cái gì bóp
+ Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong mối quan hệ thắt vào”. Và, trong khoảnh khắc ấy, anh phát hiện ra “cái đẹp
đa chiều, bằng nhiều góc độ khác nhau. chính là đạo đức”, “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện,
Nhận xét: khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Ngòi bút
- Mang bóng dáng của chính nhà văn, Phùng đã thể hiện sự của Nguyễn Minh Châu thật tinh tế khi miêu tả cảm giác run rẩy
trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy nghệ của người nghệ sĩ trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên. Đó là
thuật, về thiên chức của người nghệ sĩ, về cuộc đấu tranh với phút giây hạnh phúc tột đỉnh bởi người nghệ sĩ đã cảm nhận được
cái chân thiện mĩ của cuộc đời, cảm nhận thấy tâm hồn mình như
chính mình để hoàn thiện nhân cách.
được thanh lọc, như được trở nên trong trẻo và tinh khiết.
- Anh vừa tự hào về bức ảnh, vừa trăn trở khi thấy hiện ra
Những bóng người bất động, “ngồi im phăng phắc” trên chiếc
đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là bóng dáng cuộc sống tù đọng,
thuyền ngoài xa – nhân vật nghệ thuật, trở thành sinh động, thành
nhẫn nhục của những ngư dân vùng biển. con người của cuộc đời thường bộn bề phức tạp, khi nhà văn cho
con thuyền tiến vào bờ. Tại đây, trong khoảng không gian gần hơn,
Phân tích chi tiết: ngay khi tâm hồn đang bay bổng với những cảm xúc thẩm mĩ, đang
Những trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy tận hưởng khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ đã
nghệ thuật, về thiên chức của người nghệ sĩ đã được thể hiện đầy tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã. Một lão đàn ông “hai
tinh tế qua nhân vật Phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh trong con mắt đầy vẻ độc dữ” cùng với người đàn bà “trạc ngoài bốn
chuyến đi thực tế đã khám phá, chiêm nghiệm nhiều điều sâu sắc mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với
về nghệ thuật và cuộc đời. những đường nét thô kệch”, cả hai vừa bước xuống từ chiếc thuyền
Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một tình huống mang ý nghĩa ngoài xa tuyệt đẹp ấy. Lão đàn ông thẳng tay lấy “chiếc thắt lưng
khám phá, phát hiện về đời sống và con người thông qua cái quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Lão đàn ông đánh vợ một cách
nhìn của Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh là người say mê tàn nhẫn, không nương tay “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai
công việc và có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp của mình. Ở hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa
Phùng bộc lộ một niềm đam mê cái đẹp. Anh sẵn sàng bỏ ra bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng
mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Vốn là người lính, căm ghét sự áp
hàng tuần để săn lùng những bức ảnh đẹp, những “cảnh đắc trời
bức. Mới đầu chứng kiến, anh “đứng há hốc mồm mà nhìn”. Người
ban”. Và cũng chính tại vùng biển hoang sơ này Phùng đã chụp
nghệ sĩ như “chết lặng”, anh không ngờ đằng sau cái vẻ toàn bích
được bức ảnh đích thực của một đời lao động nghệ thuật nghiêm
của tạo hóa lại có cái xấu, cái ác đến mức không thể tin được. Sau
túc, đồng thời phát hiện được nhiều sự thật cuộc đời.
đó như một phản xạ tự nhiên, anh vứt chiếc máy ảnh xuống đất,
Để có được tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu chạy nhào tới. Nhưng thằng Phác, con trai lão đã kịp đến che chở
của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đã tới một vùng biển miền cho mẹ. Không còn sương mù, không còn biển cả, chỉ còn lại những
Trung từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tình bố cục, đã nghịch lí cuộc đời. Tấn bi kịch gia đình ngư dân ấy chính là muôn
“phục kích” mấy buổi sáng để chộp được một cảnh thật ưng ý. mặt cuộc đời - “ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ
Đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp với màu đen đầy rẫy những biến động, những bất ngờ...” (Nguyễn
“trời cho” trên mặt biển mờ sương. Vẻ đẹp mà cả đời bấm máy Khải).
anh chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần. Đó là Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, bạn đọc nhận thức được rằng:
hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó đang lướt thẳng vào bờ trên Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, không phải bao giờ cũng đẹp,
mặt biển mờ sương như “một bức tranh mực tàu của một danh cũng là nghệ thuật mà nó chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn
họa thời cổ”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả thật chi giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác. Người nghệ sĩ phải tìm
tiết và sống động khung cảnh tuyệt mĩ ấy: “Mũi thuyền in một hiểu cuộc đời trong mối quan hệ đa chiều, bằng nhiều góc độ khác
nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng sữa có pha nhau.
đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, “vài bóng người Mang bóng dáng của chính nhà văn, Phùng đã thể hiện sự trăn trở
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy nghệ thuật, về thiên
khum khum đang hướng mặt vào bờ”. “Toàn bộ khung cảnh từ chức của người nghệ sĩ, về cuộc đấu tranh với chính mình để hoàn
đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp một vẻ đẹp đơn giản thiện nhân cách. Anh vừa tự hào về bức ảnh, vừa trăn trở khi thấy
hiện ra đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là bóng dáng cuộc sống tù đọng,
và toàn bích”.
nhẫn nhục của những ngư dân vùng biển. Hình ảnh ấy in đậm trong
tâm khảm người đọc khiến tác phẩm luôn vang vọng những ý nghĩa
mới mẻ sau mỗi lần đọc lại.
2. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện: Chị có thể giải thoát mình khỏi bị kịch gia đình bằng cách ly
hôn với chồng, nhưng lại có bất hạnh của mình là lẽ đương
Kiến thức khái quát: nhiên bởi trong cuộc mưu sinh không dễ dàng gì trên chiếc
- Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông
chánh án Đẩu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ ấy, khỏe mạnh, biết nghề, chỉ vì có những đứa con cần được sống
chị chịu đau đớn, đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ và lớn lên. Trong những chuỗi ngày cực nhọc, lam lũ, chị
chồng. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án cũng biết chắt gạn niềm vui: “Ở trên thuyền, cũng có lúc vợ
huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những chồng, con ai chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. “Vui nhất là
người như Phùng, Đẩu hiểu được nguyên do của những điều lúc ngồi nhìn đàn con tôi, chúng nó được ăn no”. Qua những
tưởng chừng vô lí. lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương ấy, người ta
+ Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam mới thấy nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh của chị.
chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn Đó là tình thương vô bờ dành cho những đứa con “đám đàn
khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. bà ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo
Vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp
+ Qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa...phải sống cho con
thương ấy, người ta mới thấy nguồn gốc của mọi sự chịu chứ không thể sống cho mình”.
đựng, hi sinh của chị. Đó là tình thương vô bờ dành cho Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản thì chỉ cần yêu cầu người
những đứa con “đám đàn bà ở thuyền chúng tôi cần phải đàn bà li dị chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách
có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng thấu suốt thì sẽ thấy suy nghĩ và cách ứng xử của người đàn
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên bà hàng chài là không thể khác được. Trong khổ đau triền
dưới chục đứa...phải sống cho con chứ không thể sống cho miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh
mình”. phúc nhỏ nhoi. Vậy là cái vỡ ra trong đầu Đẩu (vị chánh án
=> Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản thì chỉ cần yêu cầu miền biển) và cũng là của Phùng là: người đàn bà không phải
người đàn bà li dị chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một là không mơ đến một hạnh phúc, không nghĩ đến nỗi khổ cực,
cách thấu suốt thì sẽ thấy suy nghĩ và cách ứng xử của người tủi nhục của mình. Đằng sau cái sự lạc hậu mà người đàn bà
đàn bà hàng chài là không thể khác được. Trong khổ đau triền tự biết là cả một sự thấu hiểu lẽ đời, cả một sự hi sinh đáng
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh quý. Ở chị vẫn ngời lên chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn
phúc nhỏ nhoi. nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là
- Qua câu chuyện ở tòa án huyện, ta thấm thía rằng không thể người đàn bà vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng
dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời. Đối với Đâu
của đời sống. và Phùng, là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu
vì sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn
Phân tích chi tiết:
say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với cái ác...nhưng vẫn
Tình huống truyện phát triển đẩy mạch truyền sang một tầng
thiếu kiến thức thực tế, vẫn giải quyết mọi thứ bằng lí thuyết
hiện thức sâu hơn khi nhân vật Phùng chứng kiến câu chuyện
suông, bằng lòng tốt còn nông cạn, hời hợt. Hiện thực trớ
tại tòa án (huyện). Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện
trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức
theo lời mời của chánh án Đẩu, người có ý định khuyên bảo,
được những chân lí, những lẽ đời sâu sắc.Từ cái nhìn hiện
thậm chí đề nghị người đàn bà khốn khổ ấy từ bỏ lão chồng
thực mang tính chất khám phá, phát hiện, có chiều sâu,
vũ phu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ ấy, chị
Nguyễn Minh Châu muốn phê phán cái nhìn lãng mạn, một
chịu đau đớn, đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ chồng.
chiều với cuộc sống. Nhà văn đặt ra vấn đề trách nhiệm của
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu
người nghệ sĩ, của nghệ thuật phải đào sâu, phải khám phá,
chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những người như Phùng,
nhẫn nại với thực tế, dù thực tế ấy phũ phàng. Qua câu
Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng chừng vô lí.
chuyện ở tòa án huyện, ta thấm thía rằng không thể dễ dãi,
Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị
đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của
chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba
đời sống.
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Vậy mà vẫn
nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Người đàn bà
hàng chài van xin tòa cho chị được sống cùng người chồng vũ
phu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tội con cũng được,
nhưng đừng bắt con bỏ nó...”.
3. Các nhân vật trong truyện: phu với lí lẽ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống
cho con chứ không phải sống cho mình như trên đất
Kiến thức khái quát: được”. Đây là cách ứng xử thể hiện tình yêu thương con
a. Nhân vật người đàn bà hàng chài: vô bờ.
Đây là người đàn bà không tên, điển hình cho những người + Hành động thương con: gọi con, ôm chầm lấy con, đau
phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng giàu tình thương yêu. đớn khi con đã chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
Ngoại hình: - Giàu lòng nhân hậu, vị tha và luôn biết chắt chiu những
- Trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt hạnh phúc đời thường.
rỗ và tấm lưng áo bạc phếch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một + Cách nhìn của người đàn bà về người chồng của mình:
đêm kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Nếu nghệ sĩ Phùng nhìn người đàn ông dưới góc độ lí lịch,
=> Chân dung con người có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, thành phần, chánh án Đẩu nhìn người đàn ông dưới góc độ
sinh ra để gánh vác công việc, để chèo chống với phong ba. pháp luật, thằng Phác nhìn người đàn ông dưới con mắt trẻ
Số phận: thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ - nạn nhân của bạo hành
- Xấu xí: vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người gia đình lại nhìn anh ta dưới con mắt thương cảm bởi chị
khác, bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá hiểu lí do vì sao người chồng lại trở nên độc ác như vậy.
giả, có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh nặng mưu sinh đã ghì
nên duyên với ai. Người đàn bà lại có mang với một anh con con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm tính con người.
trai nhà hàng chài hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã Trong khi mọi người nhìn người đàn ông như một ác nhân
trở thành vợ chồng. thì người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân.
- Nghèo khổ: gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp + Người phụ nữ luôn chắt chiu, trận trọng những niềm hạnh
nghèo túng quanh năm. Những ngày không đi biển được, cả phúc nhỏ nhoi, đời thường: vui nhất khi nhìn đàn con được ăn
nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối. no, khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hòa thuận.
- Bị bạo hành gia đình: - Mặc dù thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời,
+ Bạo hành về thể xác: Người chồng chị vốn hiền lành thấu tình đạt lí.
nhưng cục tính, bị cái nghèo, cái khổ và nỗi vất vả đè nặng + Qua những tâm sự ở tòa án huyện: Chị xuất hiện ở tòa án
nên biến đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu, thường xuyên huyện trong tâm thế bị động, không tự nguyện và cũng không
đánh vợ để giải tỏa những khó chịu, ấm ức “ba ngày một muốn viết đơn bỏ chồng. Khi mới bước chân đến tòa án, chị
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ khi nào lão thấy khổ tỏ ra rất lúng túng và sợ sệt, xưng hô lễ phép “con” - “quý
quá lại lôi vợ ra đánh, trút giận với những lời lẽ cay độc”. tòa” và nhìn xung quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng khi nghe
Người đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu đựng “không hề kêu một lời khuyên và hiểu thiện chí của Đẩu, của Phùng, chị thay đổi
tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. thái độ: từ chối lời đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi giá
+ Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần: khi phải chứng kiến để không phải bỏ chồng, đưa ra những lí do bằng việc kể lại
đứa con căm ghét bố đến tột cùng mà mình không có cách câu chuyện về cuộc đời mình. Qua câu chuyện ta thấy được
nào để xóa đi sự thù hằn đó, người đàn bà đã ý thức được trong sự cam chịu, nhẫn nhục đầy vô lí ấy lại chứa đựng cái lí
sự nguy hiểm của cái ác và thói côn đồ hình thành trong của sự hi sinh.
lòng đứa con. Chị đã cho con về sống với ông ngoại ở trên + Có thể thấy sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời ở người
rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, phụ nữ này không bộ lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà được cất
thằng bé lại không thể làm ngơ khi mẹ bị đánh. Với sự giữ, giấu kín ở bên trong. Đây là người phụ nữ khiêm
bồng bột của tuổi trẻ, đứa con đã ném hận thù về phía nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách sống cho riêng
người cha và sẵn sàng giấu con dao trong người để giết mình.
cha, khiến người mẹ vô cùng đau đớn. Nỗi đau này lớn => Qua câu chuyện, ta thấy rõ không thể dễ dãi đơn giản
hơn nỗi đau thể xác. trong việc nhìn nhận một sự việc, hiện tượng, con người
Vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất: trong cuộc sống.
- Yêu thương chồng con: Chiều sâu tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua nhân vật:
+ Chị chấp nhận, cam chịu bị đánh không kêu ca, không - Giá trị hiện thực: Đất nước vẫn chưa thoát khỏi sư chấn của
trốn chạy bởi chị hiểu trong cuộc sống mưu sinh đầy gian chiến tranh, đời sống của nhân dân và số phận cá nhân là
khổ trên con thuyền rất cần người đàn ông dù người đàn những vấn đề không thể giải quyết nhanh chóng, cách mạng
ông ấy có man rợ, tàn bạo. Vì cuộc sống của những đứa không thể giải quyết bi kịch cho mỗi cá nhân một cách đơn
con, chị thà bị đánh chứ không chịu bỏ chồng. giản, bởi vậy mỗi con người phải đối diện với bi kịch của
cuộc đời mình, chấp nhận nó và dung hòa với nó.
Cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ
nữ; đau đớn trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những
bi kịch của con người trong cuộc sống thời bình.
Cùng với việc thể hiện thế giới quan của mình về cuộc sống,
con người, toát lên từ trang văn ấy, ta còn nhận được một
điều gì cao cả hơn như vậy, phải chăng chính là tư tưởng của
Nguyễn Minh Châu qua sự khám phá đó. Đó là một tấm lòng
cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ
nữ; đau đớn trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những
bi kịch của con người trong cuộc sống thời bình.
Bên cạnh đó tác phẩm còn thẫm đượm hồn văn của một trái
tim luôn khắc khoải, băn khoăn, trăn trở, suy tư sâu lắng về
những vấn đề của đời sống nhân sinh, của nghệ thuật. Đời
sống vốn phức tạp, đầy bí ẩn, chứa đựng vô vàn những
nghịch lý nên liệu có thể nhìn cuộc đời bằng cái nhìn giản
đơn, dễ dãi, xuôi chiều? Chiến tranh đã qua đi nhưng cuộc
đời của những con người lao động nghèo khổ sẽ như thế nào,
liệu có tươi sáng hơn? Tương lai của những đứa trẻ như thằng
Phác sẽ ra sao? Phải chăng cuộc chiến chống đói nghèo, tăm
tối còn gian nan, quyết liệt hơn cả cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm? Phải chăng đã đến lúc chúng ta phải chiến đấu
cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày b. Nhân vật nghệ sĩ Phùng:
một tốt hơn; đã đến lúc văn học phải viết về con người, trước
sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống? Kiến thức khái quát:
Vị trí: hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài,
- Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của 1 người lính anh đã nhận ra những điều mới: “phải nhìn nhận mọi việc
và của 1 người nghệ sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế, một cách toàn diện”.
nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Đồng Đánh giá:
thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm - Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng
với cuộc đời. đã có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu
Đặc điểm tính cách: chuyện của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và
- Phùng là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có tình yêu để nhận ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu
cái đẹp mãnh liệt sắc.
+ Thể hiện qua tâm hồn tinh tế với những rung cảm rất - Nhân vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội
mãnh liệt, luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp hoàn mĩ. tự trong mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ
Phùng là một người say mê công việc và có ý thức trách đẹp của một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh
nhiệm với nghề nghiệp của mình. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng Châu đã khắc họa thành công nhân vật này trong một tình
tuần để săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy Phùng đã chụp huống đầy nghịch lí với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu
được bức ảnh đích thực của một đời lao động nghệ thuật chuyện được kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi,
và phát hiện được nhiều điều. chân thực và sâu sắc hơn.
+ Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm
nhận sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát Phân tích chi tiết:
hiện ra sự đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của 1 người lính và
nhất đầy vẻ thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ của một người nghệ sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế,
màng, huyền ảo của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Đồng
ảnh chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm
góc độ của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với cuộc đời. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của
với những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức ảnh trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa
ấy là sáng tạo, là công sức của một đời nghệ sĩ, là khoảnh của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật
khắc bùng phát của niềm đam mê nghệ thuật. Phát hiện thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều.
thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền tiến vào bờ. Người Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã
nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã, sự thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc
bạo hành gia đình. Mặc dù khám phá ra những đối lập cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.
song Phòng không quay lưng lại với sự thật cho dù nó phũ Trước hết, anh là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có
phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến cảnh người tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua tâm
đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực tiếp nghe hồn tinh tế với những rung cảm rất mãnh liệt, luôn khao khát
câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, từ tìm kiếm cái đẹp hoàn mĩ. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để
đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy mà sau mấy buổi sáng “phục
thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững sờ, vỡ kích”, anh đã chụp được “cảnh đắt trời cho”. Đó là cảnh ban
lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu. Đó mai vùng ven biển, với “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
của người nghệ sĩ. hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Với tâm hồn nghệ sĩ
- Phùng còn là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như “bức tranh mực
+ Là chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, anh tàu của danh họa thời cổ”. Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm
luôn tôn trọng lẽ phải và sự công bằng xã hội. Hai lần hạnh phúc “bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào”. Anh
chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, Phùng xông vào thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận
can thiệp, chân thành muốn giúp đỡ người đàn bà đáng được chân- thiện- mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn
thương. mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết.
+ Dũng cảm bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng Từ đó, anh nhận thức “bản thân cái đẹp là đạo đức”. Bằng
hồn mình để lắng nghe “những vang động của đời”. con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho
- Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là
nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái
những cái sai của mình. hoàn mĩ.
+ Ban đầu, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm nhận
thanh lọc tâm hồn con người. sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát hiện ra sự
+ Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ nhất đầy vẻ
thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng đã
của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình ảnh chiếc thuyền có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu chuyện
ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ góc độ của một người của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và để nhận
nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với những gì mình đã kịp ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc. Nhân
ghi lại trong ống kính. Bức ảnh ấy là sáng tạo, là công sức vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội tự trong
của một đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ đẹp của
mê nghệ thuật. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh Châu đã
tiến vào bờ. Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật khắc họa thành công nhân vật này trong một tình huống đầy
nghiệt ngã, sự bạo hành gia đình. Người chồng đánh đập vợ nghịch lí với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu chuyện được
một cách dã man, vừa đánh vừa chửi “mày chết đi cho ông kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi, chân thực và
nhờ”, “chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ thì cam sâu sắc hơn.
chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ,
xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực
gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Nó hoàn toàn trái
ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Mặc dù khám phá ra
những đối lập song Phòng không quay lưng lại với sự thật
cho dù nó phũ phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến
cảnh người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực
tiếp nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án
huyện, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng
về nghệ thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững
sờ, vỡ lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu.
Đó cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống
của người nghệ sĩ.
Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn
là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp. Anh là
chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, luôn tôn trọng
lẽ phải và sự công bằng xã hội. Hai lần chứng kiến cảnh
người đàn ông đánh vợ, Phùng xông vào can thiệp, chân
thành muốn giúp đỡ người đàn bà đáng thương, dũng cảm
bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng hồn mình để
lắng nghe “những vang động của đời”. Với anh - một người
đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của
chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn
ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh.
Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà
nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa, luôn đứng về
lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều
xấu, điều ác.
Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ
cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những
cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được “cảnh đắt
trời cho”, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng
thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo
hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của
người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới.
Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách
toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp c. Nhân vật bé Phác:
mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn
từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống. Phác là đứa trẻ vùng biển, hồn nhiên, hiểu biết và giàu
lòng tự trọng:
- “tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ”, “tỏa ra mùi hiện tình cảm dạt dào yêu thương, muốn lau đi tất cả những
nước mặn”. khổ đau mà mẹ gánh phải.
- “cặp mắt đầy vẻ ngây thơ” như cặp mắt của một “chú hổ => Đứa con hiểu được nỗi đau đớn mà người mẹ đã chịu
con từ miền rừng vừa lạc về” nét ngây thơ, hồn nhiên cùng đựng, quan tâm và lo lắng cho mẹ Tình cảm thiêng liêng,
nét hoang sơ của núi rừng. đáng trân trọng từ một đứa trẻ.
=> Phác là đứa trẻ sớm dãi dầu mưa nắng, không được chăm Phác là nạn nhân của bạo hành gia đình:
sóc chu đáo. - Tuy hành động của Phác khi lao vào đánh người đàn ông
- Từ nhỏ, đã được mẹ đưa lên rừng ở nên Phác có vốn am đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương mẹ, không muốn thấy
hiểu về thiên nhiên và cuộc sống núi rừng rất phong phú: mẹ mình chịu đau đớn, nhưng đó cũng chỉ là hành động nông
+ “Giải thích cặn kẽ” cho Phùng nghe “cuộc sống của những nổi, chưa hiểu hết sự tình bên trong của Phác.
giống chim trên rừng”. - Hành động đó cũng cho thấy, Phác vừa đối nghịch cũng vừa
=> Sống gắn bó với thiên nhiên, là một đứa bé nhiệt tình, hòa thống nhất với người đàn ông:
đồng và thân thiện; + Giống người bố độc ác từ hình thức đến tính tình: đều
=> Đặc biệt có thể nhận thấy ở Phác sự thông minh, nhạy bén mạnh mẽ, liều lĩnh, mang phẩm chất của những người đàn
với cuộc sống, biết học hỏi và quan sát mọi thứ xung quanh. ông vùng biển.
Điều đó khiến Phác chịu nhiều ảnh hưởng xấu về cả tinh thần + Hành động đánh cha của Phác, ý định dùng “con dao găm”
lẫn hành động khi là nạn nhân trực tiếp của nạn bạo hành để đâm chết cái
gia đình. người làm mẹ khổ chính là hành động bạo lực, ảnh hưởng bởi
- Sau cái lần Phùng chứng kiến cảnh cha nó đánh mẹ nó, cha nó.
thằng bé có những thay đổi trong cách xử sự với Phùng: => Hành động chạy lao đến để ngăn cha đánh mẹ, “nhảy xổ
+ “Thằng bé không cho tôi lại gần” vào cái lão đàn ông”cho thấy sự căm thù của Phác đối với
+ “đâm ra thù ghét tôi, hết sức thù ghét” cha, mặt khác cũng phản ánh sự ảnh hưởng những hành động
+ “đối xử như một kẻ hoàn toàn xa lạ” bạo lực của người đàn ông đối với Phác. Những hành động
+ “nhìn tôi bằng con mắt âm thầm, giấu kín đầy sự thù ghét” phản kháng ngày càng tăng tiến về mức độ đã gióng lên hồi
=> “một đức trẻ con kì lạ nhất trần đời”, giàu lòng tự trọng, chuông cảnh tỉnh cả xã hội khi Phác thật sự trở thành nạn
mang cảm giác xấu hổ khi Phùng đã biết rõ hoàn cảnh gia nhân của nạn bạo hành gia đình, là mối quan tâm lớn khi
đình nó . thằng bé định dùng “con dao găm” để giết cha mình.
=> Phác rất trẻ con, vẫn tỏ ra hờn dỗi, hành động và suy - Chính những hành động đánh đập dã man của người đàn
nghĩ vẫn rất con nít. Phác là đứa trẻ vùng biển mang những ông đã gây tác động
tính cách của một đứa trẻ bình thường khác: hồn nhiên, hoạt xấu đến suy nghĩ và hành động của thằng Phác.
bát, trẻ con và đặc biệt có vốn am hiểu về thiên nhiên. => Trong tâm trí của thằng bé giờ đây chỉ còn sự thù hận,
Phác là đứa con giàu lòng yêu thương mẹ: căm ghét. Điều đó đã làm mất đi sự hồn nhiên, đã tổn thương
- Tuy sống xa mẹ từ nhỏ, thiếu sự chăm sóc, quan tâm từ mẹ về tinh thần của một đứa trẻ đang trưởng thành.
nhưng Phác vẫn luôn cảm nhận được tình thương của mẹ và + Như một “chú sói con” đang dần đi vào con đường bạo lực
yêu quý, bảo vệ cho mẹ. giống cha nó.
- Khi trông thấy cảnh người cha đánh mẹ mình: + Thằng bé “thông minh và dễ thương hoàn toàn biến thành
+ Phác đã “chạy một mạch”, đầy “sự giận dữ căng thẳng” một đứa trẻ độc ác và mất dạy”.
+ “như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”, thằng => Phác đã vô tình trở thành một nạn nhân của bạo hành gia
bé lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông” đình, nghèo đói và thất học. Mai đây, Phác cũng có thể trở
+ Thằng bé như “một người câm” và “khỏe đến thế” thành người đàn ông thứ hai và tương lai của nó cũng sẽ
+ Phác “giằng chiếc thắt lưng, vươn thẳng người vung chiếc giống như cha nó.
khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ”. Sự giận dữ, => Đó chính là vấn đề bức thiết được đặt ra trong tác phẩm:
bất bình khi thấy cảnh tượng đó; thể hiện tình cảm yêu Hãy cứu lấy nhân tính của những con người, đặc biệt là
thương, lo lắng cho mẹ của thằng Phác và căm thù cha nó. Vì những đứa trẻ đáng thương và tội nghiệp!
mẹ mà Phác lao vào cha, không suy nghĩ để bênh vực cho Đánh giá:
mẹ, như một người đàn ông mạnh mẽ bảo vệ người mình - Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật thằng Phác nhằm
thương yêu. đạt ra vấn đề cần giải quyết cho tương lai của đứa trẻ đang có
nguy cơ bị hủy hoại.
+ “chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn - Bên cạnh đó, còn thể hiện tư tưởng nhân đạo được nhà văn
ông” gửi gắm: thái độ quan tâm đến con người và niềm tin vào một
+ Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người cuộc sống đổi mới, hạnh phúc hơn cho những người nghèo
mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt” => hành động thể khổ; mong tìm ra hướng giải quyết để những đứa trẻ như
thằng Phác sẽ không rơi vào bi kịch và tự hủy hoại nhân cách
như cha nó. Đồng thời, tác giả đã lên tiếng bảo vệ khát vọng
được sống trong yêu thương, trong bình yên của trẻ em.
Tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy:
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều
thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, nhìn
lâu hơn nữa bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang
bước ra khỏi tấm ảnh...”
+ “Cái màu hồng hồng” của ánh sương mai chính là chất thơ
của cuộc sống, là cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu
tượng của nghệ thuật.
+ “Người đàn bà bước ra từ tấm ảnh” là hiện thân cho những
lam lũ, khốn khó đời thường, là sự thật cuộc đời đằng sau bức
ảnh.
=> Quan niệm của nhà văn về nghệ thuật: Nghệ thuật chân
chính không bao giờ rời xa cuộc đời và phải là cuộc đời, luôn
luôn vì cuộc đời.
● Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa
phát hiện về đời sống. Tác giả đã tạo ra nhiều tình huống như
thế vừa nối tiếp nhau trong mạch truyện, lại vừa đột ngột, bất
ngờ giúp người đọc nhận ra bản chất của sự việc một cách thú
vị, thấm thía để hiểu sâu sắc chủ đề của tác phẩm. Các tình
huống truyện cứ thế nối tiếp nhau và được NMC đẩy lên cao
trào, ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện, khám phá tính
cách con người và sự thật cuộc đời.
- Nghệ thuật kể chuyện sinh động: người kể chuyện là Phùng.
Quan đó tác giả đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống
truyện, lời kể trở nên khách quan, chân thực, giàu tính thuyết
phục.
- Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ
phần tâm hồn bên trong nhân vật:
+ Lời của người đàn ông: thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ
đầy vẻ tục tằn, thô bạo.
+ Lời người đàn bà: dịu dàng, xót xa khi nói với con, thật
đau đớn và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận mình.
+ Lời của Đẩu ở tòa án huyện thể hiện một con người tốt
bụng và nhiệt thảnh.
1. Mở bài:
MB1:
Ai đó đã từng viết: “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ
niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật
phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Có lẽ nhận định đó chính đời sống và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu,
là nơi khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà văn Việt Nam tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện
trong đó không thể không kể đến Kim Lân với nhân vật thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện
người vợ nhặt và Nguyễn Minh Châu với nhân vật người đàn ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là
bà hàng chài. Cả hai nhân vật đều mang một hoàn cảnh sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể
đặc biệt và mới lạ trong làng văn xuôi hiện đại và nó cũng đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà
làm sáng lên giá trị nhân đạo của cả hai tác phẩm. cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi, phát hiện
để hiểu đúng bản chất của nó.
MB2:
Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm trong sự nghiệp cầm bút KB2:
của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng Những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng và Đẩu
tâm và tâm điểm chính là con người”. Quả thực là như vậy. là bước ngoặt quan trọng giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nếu như trước đó, bước vào văn nghiệp trong tâm thế của truyền tải thông điệp của mình. Thêm vào đó, đây cũng chính
một cây bút lãng mạn, thì sau này, trong quá trình viết, tìm là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy
hiểu khai thác về cuộc đời, Nguyễn Minh Châu nhìn nhận ra mới mẻ của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn
được sứ mệnh của người cầm bút. Tác phẩm “Chiếc thuyền đồng tâm và tâm điểm chính là con người”.
ngoài xa” là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ nét tư
duy “nghệ thuật vị nhân sinh” – văn học sinh ra là vì con KB3:
người, vì cuộc đời của ông. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã trở thành một viên ngọc quý của văn học Việt
MB3: Nam trong những năm 80 - Giai đoạn chứng kiến những đổi
Trong tôi vẫn luôn còn đó những ám ảnh bởi bức ảnh “Chiếc mới trong xã hội và cả trong lĩnh vực văn học. Nguyễn Minh
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Biết bao nhiêu Châu đi sâu vào khai thác những vấn đề tưởng chừng nhỏ
những nghiệt ngã sau vẻ đẹp tưởng chừng hoàn mỹ đến vậy nhặt nhưng lại đem tới bài học thấm thía, giúp người đọc
để cho bạn đọc thấy được những khía cạnh khác của xã hội nhận ra được những góc khuất khác nhau về con người.
những năm 80 đầy “giông bão”. Có một nhân vật đã để lại rất Nhìn mọi vấn đề, sự việc, chúng ta cần trang bị cho mình một
nhiều ấn tượng với đọc giả - là người đàn bà hàng chài – hình cái nhìn đa chiều. Không dừng lại ở đa chiều, hãy nhìn nhận
ảnh của một người phụ nữ với vẻ ngoài không được đẹp đẽ dưới góc độ cảm thông để cảm thấy cuộc đời này vẫn còn
nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, một sức thấm đẫm tình người đến vậy!
sống mãnh liệt. Để rồi, hình ảnh của người đàn bà hàng chài
đã sống như thế, in đậm trong trái tim của bạn đọc nhiều thế KB4:
hệ. Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh”
với chính nhân vật người nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh
MB4: đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng độc giả. Một
Có một nhà văn đã từng nói: “Cái đẹp chính là liều thuốc chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót
giúp trái tim của người nghệ sĩ thăng hoa hơn. Cái đẹp thanh thương, một chút đồng cảm,...tôi vẫn nghĩ rằng những cảm
lọc tâm hồn con người, cái đẹp khiến cho người ta trở nên xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện này còn
thánh thiện và cao thượng hơn”. Tôi vẫn còn nhớ nhân vật nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài
Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) vẫn vẫn, đẹp đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là
đã từng xúc động, bối rối như thế nào khi khám phá ra một vẻ biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ hàng chài
đẹp toàn bích lúc ngắm nhìn bức tranh chiếc thuyền mờ ảo khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ
trong sương khói. Nhân vật Phùng cũng từ bức tranh toàn một chút đã thấy sáng lấp lánh, long lanh.
bích này khám phá ra muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống đời
thường. Và nhân vật này, cũng đã giúp cho nhà văn Nguyễn
Minh Châu thể hiện được tư tưởng, triết lý nhân văn sâu sắc
về vẻ đẹp con người, vẻ đẹp nghệ thuật, vẻ đẹp cuộc đời.
2. Kết bài:
KB1:
Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu
đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá
Văn bản: RỪNG XÀ NU Nhận xét về tác giả và tác phẩm:
-Nguyễn Trung Thành-
1. Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây
“ Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút,
văn hóa của Tây Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông,
“Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc cuốn hút người ta, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng
không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm
nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây lừng. Nệm lá dưới mặt đất ngả lưng êm ru...
thơ, đầy những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả (Nguyên Ngọc, “Về truyện ngắn Rừng xà nu”, Nhà văn nói về tác phẩm,
tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang – Mèo Vạc.” Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
(Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
2. Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm.
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Đó là cái đêm dài như cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng
chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ và hạnh phúc
trường tồn ở đây, bởi "nhà ra xa, đến hút tầm mắt cũng không
thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân
trời...”.
(Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm,
Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
3. Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên trường tồn
mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự
sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho
đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và
Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về
tự giác hơn của các thế hệ sau.
mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội,
(Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm,
nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Ông đã viết
Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
về con người ở mảnh đất này với tấm lòng trân trọng, cảm
phục: trong cuộc kháng chiến chống Pháp là “Đất nước đứng 4. Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có
lên”, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là “Rừng xà nu”, cả
thể nói, Nguyên Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh
hai tác phẩm đều được xem là đỉnh cao của văn học hiện đại
trong hai thời kỳ lịch sử đó. Truyện của Nguyễn Trung Thành hùng, những sự tích anh hùng. (Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
có lối viết trong sáng, chặt chẽ, ngôn ngữ đẹp, giàu chất hiện
thực nhưng lại có tầm khái quát cao, đậm chất sử thi và cảm 5. Gần nửa thế kỉ qua, truyện ngắn “Rừng xà nu” như một nỗi
hứng lãng mạn, tất cả tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn với ám ảnh đẹp từ cảnh sắc đến con người giữa chốn ngàn xanh
người đọc. (Trích bài viết “Về lại “Rừng xà nu”, Báo Kon Tum Online, Tạ Văn Sỹ)
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: 6. Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có ma lực. Giản dị,
chắt lọc và trong veo. (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)
7. Văn Nguyên Ngọc là thứ văn văn trong, sáng như mật ong, lại
đượm ướp một làn hương rất đặc biệt. Đọc cứ bàng hoàng, váng
vất mãi. Nguyên Ngọc hơn người ở tài văn. Không có thực tài,
không thể viết được thế. (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)
8. Dưới góc nhìn văn hóa, ta thấy “Rừng xà nu” có nội dung rất
quan trọng: văn hóa làng và những tình cảm thâm trầm, cao đẹp.
Và đó là cơ sở của nội dung thứ hai: Tinh thần bất khuất của
người dân Tây Nguyên. Tinh thần ấy lớn mạnh được là nhờ nó
bám rễ sâu chặt vào “đất làng”. (Đặng Văn Vũ)
9. Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà
văn hóa của Tây Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền
“Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc cuốn hút người ta,
không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của
nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây thơ,
đầy những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn
rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang - Mèo Vạc.
(Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM: Tnú bị bắt, giặc đã đốt tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu.
- Cây xà nu trở thành biểu tượng cho số phận và phẩm chất
của con người Tây Nguyên, được đặc tả ở phần mở đầu và
phần cuối của tác phẩm.
+ Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn phá
bởi đại bác của kẻ thù: “hàng vạn cây, không có cây nào
không bị thương... chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề...rồi
dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”
=> Những thương tích ấy thượng trung cho những mất mát,
1. Hình tượng rừng xà nu, cây xà nu: đau thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào
Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc kháng
a. Giới thiệu khái quát về cây xà nu: chiến: anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả, mẹ con
- Cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây Nguyên, Mai bị sát hại, đôi bàn tay Tnú bị tra tấn...
đây là loại cây có sức sống mãnh liệt, nó có thể sinh sôi, nảy + Hình ảnh những cây xà nu non, mới mọc, thay thế những
nở ngay cả trên những vùng đất khô cằn hay khí hậu khắc cây đã ngã “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng
nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và lên bầu trời” gợi nhắc đến thế hệ trẻ của dân làng Xô Man
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ, ham mê lí tưởng, tiếp
thanh nhã, vừa rắn rỏi, vừa mênh mông, tưởng như đã sống nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đó
từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng triệu là Tnú, Mai mưu trí dũng cảm. Đó là Dít gan góc, mạnh
cây vô tận...” Chính loài cây có sức sống man dại và trong mẽ. Đó là bé Heng thông minh nhanh nhẹn.
sạch này đã trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Trung + Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó phóng lên rất
Thành khi viết về Tây Nguyên. nhanh để tiếp lấy ánh nắng...” tượng trưng cho niềm khát
- Ý nghĩa và vị trí: khát khao tự do, hướng tới ánh sáng của Đảng, lí tưởng
+ Mở đầu tác phẩm nhà văn đã tập trung miêu tả cây xà nu cách mạng của nhân dân Tây Nguyên: Tnú và Mai từ nhỏ
bằng một đoạn văn dài. Kết thúc tác phẩm vẫn là hình ảnh đã tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú vượt ngục đi giải
những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến tận chân trời. phóng quê hương, Dít thay Mai làm cách mạng.
Đây là kết cấu theo kiểu đầu cuối tương ứng, không chỉ có + Sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động
ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết cấu tác phẩm mà còn hủy diệt của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng,
nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng của cây xà nu. những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân
+ Rừng xà nu còn có mặt trong suốt tác phẩm với những thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế
biến thể khác nhau như củi xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, những cây đã ngã...”
lá xà nu. lửa xà nu... => Tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bất khuất kiên cường
=> Xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, chứa mà sự vươn lên mạnh mẽ của người dân Tây Nguyên trong
đựng ý nghĩa tư tưởng sâu xa của tác phẩm. cuộc chiến mất còn với kẻ thù: Tnú bị tra tấn dã man, bị đốt
b. Phân tích cụ thể: mười ngón tay nhưng vẫn kiên cường tiếp tục cầm súng chiến
Ý nghĩa thực: đấu.
- Xà nu là loại cây đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp hoang sơ, + Hình ảnh cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở
hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên. cho làng:
- Hình ảnh xà nu trong tác phẩm còn tạo nên một không gian Mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi dưỡng
nghệ thuật mang đậm hương vị sử thi của câu chuyện. ngọn lửa khát vọng, tự do, là chỗ dựa tinh thần cho các thế hệ
Ý nghĩa biểu tượng: con cháu. Cụ Mết được hình dung như một cây xà nu lớn
- Xà nu được miêu tả trong sự ứng chiếu với con người. vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao
- Xà nu trở thành một nhân vật gắn bó mật thiết với thế hệ dân làng Xô Man.
cuộc sống chiến đấu của con người Tây Nguyên. Mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang chiến đấu để
+ Có mặt trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người bảo vệ quê hương đất nước trong những năm chống Mĩ.
dân làng Xô Man, lửa xà nu cháy giần giật trong bếp, khói + Những ngọn đồi xà nu, những cánh rừng xà nu nối tiếp
xà nu dùng để xông bảng cho Tnú và Mai học chữ. nhau chạy hút tầm mắt đến tận chân trời cho thấy rừng xà
+ Tham dự vào những sự kiện trọng đại, chứng kiến bao nu không chỉ tượng trưng cho một làng Xô Man bé nhỏ
thăng trầm biến cố và cũng như bước đường trưởng thành hay một vùng núi rừng Tây Nguyên. Đó còn là biểu tượng
của dân làng Xô Man, Tnú đọc thư anh Quyết gửi trước cho cả miền Nam, cả dân tộc Việt Nam trong những năm
khi hi sinh dưới ánh lửa xà nu, cụ Mết kể lại với dân làng kháng chiến chống Mĩ.
trang sử bi hùng của làng Xô Man gắn với một quãng đời c. Đánh giá:
của Tnú trong nhà ưng, bên bếp lửa xà nu cháy sáng; khi
- Nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ giàu hình từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi. Nguyễn
ảnh, giàu sức biểu cảm. Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường
- Có thể nói hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường
đáo của Nguyễn Trung Thành, nó được dùng như một ẩn dụ của mình, là khu rừng bát ngát phía Tây Thừa Thiên giáp
chỉ những con người Tây Nguyên: yêu tự do, giàu sức sống, Lào. Đó là một khu rừng xà nu xa típ tắp tận chân trời. Tôi
bất khuất, kiên trung, thủy chung với cách mạng. Như vậy yêu say mê rừng xà nu từ ngày đó [ ... ], Nguyễn Thi và tôi đã
hình tượng xà nu đã được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa mới sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong
mẻ, giàu tính thẩm mĩ và ý nghĩa nhân sinh. khu rừng tuyệt vời ấy [...] Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy,
ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra
Phân tích cụ thể: dưới ngòi bút của tôi!...Rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi
biết tôi đã tạo được không khí, đã có không gian ba chiều. Và
Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn này
cũng lập tức đã +nhập được vào không khí và không gian
là hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung
ấy”.
cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang một ý
nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là Chính vì xà nu mang ý nghĩa biểu tượng nên sự miêu tả về
hình ảnh cánh rừng xà nu: “đến hết tầm mắt cũng không thấy loài cây ở đây luôn luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con
gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” ( câu người gợi ra những liên tưởng về đời sống - số phận cùng
này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ phẩm cách của con người - dân làng Xô man. Xà nu trở
thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm thành một nhân vật gắn bó mật thiết với cuộc sống chiến
đọng lại trong tâm trí độc giả sau khi câu chuyện đã khép lại). đấu của con người Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu có mặt
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân làng Xô
Trước hết, cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây
Man, lửa xà nu cháy giần giật trong bếp, khói xà nu dùng để
Nguyên, đây là loại cây có sức sống mãnh liệt, nó có thể sinh
xông bảng cho Tnú và Mai học chữ. Xà nu còn tham dự vào
sôi, nảy nở ngay cả trên những vùng đất khô cằn hay khí hậu
những sự kiện trọng đại, chứng kiến bao thăng trầm biến cố
khắc nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và
và cũng như bước đường trưởng thành của dân làng Xô Man,
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa
Tnú đọc thư anh Quyết gửi trước khi hi sinh dưới ánh lửa xà
thanh nhã, vừa rắn rỏi, vừa mênh mông, tưởng như đã sống
nu, cụ Mết kể lại với dân làng trang sử bi hùng của làng Xô
từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng triệu
Man gắn với một quãng đời của Tnú trong nhà ưng, bên bếp
cây vô tận...” Chính loài cây có sức sống man dại và trong
nửa xà nu cháy sáng; khi Tnú bị bắt, giặc đã đốt tay anh bằng
sạch này đã trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Trung
giẻ tẩm nhựa xà nu. Có thể nói xà nu luôn là người bạn,
Thành khi viết về Tây Nguyên. Mở đầu tác phẩm nhà văn đã
chặng đường sinh sống song hành chứng kiến cùng với chặng
tập trung miêu tả cây xà nu bằng một đoạn văn dài. Kết thúc
đường biến động của cuộc sống con người nơi đây.
tác phẩm vẫn là hình ảnh những rừng xà nu nối tiếp nhau
Là người bạn đồng hành gắn bó, cây xà nu còn trở thành
chạy đến tận chân trời. Đây là kết cấu theo kiểu đầu cuối
biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Tây
tương ứng, không chỉ có ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết
Nguyên, được đặc tả ở phần mở đầu và phần cuối của tác
cấu tác phẩm mà còn nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng của cây
phẩm. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn
xà nu. Rừng xà nu còn có mặt trong suốt tác phẩm với những
phá bởi đại bác của kẻ thù: “hàng vạn cây, không có cây nào
biến thể khác nhau như củi xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, lá
không bị thương... chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề... rồi
xà nu. lửa xà nu...
dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn” .
Và quả là rừng xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc Những thương tích ấy thượng trung cho những mất mát, đau
đáo, chứa đựng ý nghĩa tư tưởng sâu xa của tác phẩm. Chúng thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây
ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là “Rừng xà nu”. Tác Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc kháng chiến:
giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả, mẹ con Mai bị
chức các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của sát hại, đôi bàn tay Tnú bị tra tấn... Hình ảnh những cây xà nu
tác phẩm. Xà nu là loại cây đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp non, mới mọc, thay thế những cây đã ngã “ngọn xanh rờn
hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh xà nu hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” gợi nhắc đến thế hệ
trong tác phẩm còn tạo nên một không gian nghệ thuật mang trẻ của dân làng Xô Man với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ,
đậm hương vị sử thi của câu chuyện. Có lẽ chăng chính cánh ham mê lí tưởng, tiếp nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng
rừng xà nu là cảm hứng để nhà văn sáng tác tác phẩm? chiến chống Mĩ. Đó là Tnú, Mai mưu trí dũng cảm. Đó là Dít
Nguyên Ngọc kể lại: “ Bắt đầu như thế nào? Không, quả thực gan góc, mạnh mẽ. Đó là bé Heng thông minh nhanh nhẹn.
bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu Bên cạnh đó, với đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó
đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng...” tượng trưng cho
rừng xà nu, những cây xà nu. Hồi tháng 5 - 1962, hành quân niềm khát khát khao tự do, hướng tới ánh sáng của Đảng, lí
tưởng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên: Tnú và Mai từ - Nhà văn là người gắn bó mật thiết và có duyên với đất và
nhỏ đã tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú vượt ngục đi giải người Tây Nguyên, ngòi bút của Nguyễn Trung Thành luôn
phóng quê hương, Dít thay Mai làm cách mạng. Kiên gan bền bám sát với những vấn đề cấp thiết và trọng đại của dân tộc.
bỉ, sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động Trang văn của ông mang đậm tính sử thi và ngợi ca chủ nghĩa
hủy anh hùng cách mạng.
diệt của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những - “Rừng xà nu” là một trong những sáng tác tiêu biểu của
vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể Nguyễn Trung Thành. Truyện ngợi ca lòng yêu nước, sức
cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây sống quật cường của con người Tây Nguyên bên những rừng
đã ngã...” . Những hành động đó tượng trưng cho sức sống xà nu bạt ngàn, từ đó khẳng định một chân lí khách quan
mãnh liệt, bất khuất kiên cường mà sự vươn lên mạnh mẽ của “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, chỉ có đấu
người dân Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù: tranh bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách
Tnú bị tra tấn dã man, bị đốt mười ngón tay nhưng vẫn kiên mạng mới mang đến chiến thắng trước bè lũ Mỹ - Ngụy.
cường tiếp tục cầm súng chiến đấu. - Qua nhân vật Tnú, tác giả không chỉ muốn khắc họa một
Thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người cũng tượng đài anh hùng mà còn thể hiện niềm tự hào đối với thế
còn được thể hiện ngay khi miêu tả nước, tác giả thường dùng cha anh trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một b. Vị trí nhân vật:
cây xà nu lớn”; vết thương trên lưng Tnu do dao giặc chém - Là nhân vật trung tâm tác phẩm.
thì “ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện - Là cây xà nu trưởng thành từ trong bão tố chiến tranh.
lại, tím thẫm như nhựa xà nu”. Gan góc, mạnh mẽ, hình ảnh - Đại diện tiêu biểu cho tập thể anh hùng.
cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng - Vừa là thế hệ kế tiếp của cụ Mết, vừa là thế hệ chuyển giao
như mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi dưỡng nhiệm vụ cho thế hệ sau.
ngọn lửa khát vọng, tự do, là chỗ dựa tinh thần cho các thế hệ => Được xây dựng theo kiểu nhân vật sử thi, nhân vật anh
con cháu. Cụ Mết được hình dung như một cây xà nu lớn hùng kết tinh những vẻ đẹp cộng đồng.
vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao c. Phân tích nhân vật:
thế hệ dân làng Xô Man. Ở đây, xà nu còn mang ý nghĩa ẩn Từ nguyên mẫu ngoài đời đến ý đồ nghệ thuật
dụ về những con người đang chiến đấu để bảo vệ quê hương - Nguyên mẫu của nhân vật là anh Đề, người Xê Đăng. Để
đất nước trong những năm chống Mĩ. Những ngọn đồi xà nu, làm nổi bật không khí Tây Nguyên, nhà văn đã thay anh Đề
những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy hút tầm mắt đến bằng Tnú, thay Xê Đăng bằng Strá, làng Xô Man.
tận chân trời cho thấy rừng xà nu không chỉ tượng trưng cho Khi Tnú còn nhỏ
một làng Xô Man bé nhỏ hay một vùng núi rừng Tây - Xuất thân: là một đứa trẻ mồ côi lớn lên bằng sự đùm bọc
Nguyên. Đó còn là biểu tượng cho cả miền Nam, cả dân tộc và che chở của người dân làng Xô Man, Tnú là người anh
Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ.Thủ pháp hùng được hun đúc từ tinh thần Xô Man, từ dòng máu thuần
nghệ thuật “ứng chiếu” trong miêu tả tạo nên một sự chuyển khiết của con người Tây Nguyên bất khuất được truyền từ đời
hóa, hòa nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một Đăm Săn, Xinh Nhã.
bản hợp ca đầy chất thơ hào hùng, tráng lệ về sức sống bất - Phẩm chất: Ngay từ nhỏ, Tnú đã gan góc, dũng cảm.
diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự do. d. Đánh giá chung:
- Nhìn chung Tnú mang vẻ đẹp kết tinh tâm hồn, phẩm chất
Như vậy, với nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ cũng như số phận người Xô Man, Tây Nguyên dũng cảm,
giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm, có thể nói hình tượng xà nu kiên cường, bất khuất, giàu tình yêu thương với gia đình, quê
là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. hương, cách mạng, mang sức sống bất diệt của núi rừng Tây
Rừng xà nu được dùng như một ẩn dụ chỉ những con người Nguyên.
Tây Nguyên: yêu tự do, giàu sức sống, bất khuất, kiên trung, - Với một cốt truyện hấp dẫn, lời văn trau chuốt, giàu hình
thủy chung với cách mạng. Như vậy hình tượng xà nu đã ảnh, thấm đẫm màu sắc núi rừng, nghệ thuật thấm đượm tính
được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa mới mẻ, giàu tính thẩm sử thi độc đáo, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công
mĩ và ý nghĩa nhân sinh. vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh của vẻ đẹp, sức
mạnh con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt
Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
KB1:
Trong tác phẩm “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Không khí ấy, tâm thế ấy có lẽ đã được diễn tả sâu sắc nhất
trong truyện ngắn “Rừng xà nu”. Những trang văn của
Nguyễn Trung Thành khép lại nhưng đã mở ra trước mắt
ta tượng đài những người anh hùng bất khuất, không bao giờ
chịu khuất phục trước dã tâm của kẻ thù. m hưởng sử thi của
thiên truyện vẫn còn âm vang trong lòng bạn đọc như tiếng
gọi của đại ngàn Tây Nguyên, như lời khẳng định chắc chắn
một sự thật lịch sử, rằng: để cho sự sống của đất nước và
nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải
cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành sẽ mãi sáng ngời
những vẻ đẹp tráng lệ và hào hùng ấy.
KB2:
Bấy nhiêu hi sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là
biết bao những kiên trì, quyết tâm cho một ngày mai “rũ bùn
đứng dậy sáng lòa”. Những người con của núi rừng Tây
Nguyên như cụ Mết, Tnú, Mai... là kết tinh của bao gian lao
và cả tinh thần anh dũng, kiên cường của tình yêu nước nồng
nàn luôn rực cháy trong tim. Xây dựng thành công hình
tượng người anh hùng, tập thể anh hùng mang âm hưởng sử
thi,
với lời văn chau chuốt, sinh động, Nguyễn Trung Thành cùng
thiên truyện “Rừng xà nu” đã để lại ấn tượng mạnh mẽ nơi
người đọc, khiến ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi và tự hào
mãi về những năm tháng gian lao mà huy hoàng của dân tộc:
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”
Văn bản: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Câu chuyện thú vị về Hồ Chí Minh:
- Hồ Chí Minh –
Những giờ phút hạnh phúc nhất trong đời Hồ Chủ tịch
“Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã
đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh Trong cuốn Những năm tháng không thể nào quên của Võ
dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong Nguyên Giáp (NXB Quân Đội Nhân Dân) cũng kể câu
những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản chuyện, hồi ức về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Tuyên
Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng ngôn Độc lập.
sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”. “Anh chị chủ nhà ở phố Hàng Ngang đã dành cho chúng tôi
(Trần Dân Tiên)
tầng gác hai. Bác được mời lên tầng ba làm việc cho tĩnh.
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ: Hồ Chí Minh Nhưng Bác không thích ở một mình, cùng ở với chúng tôi”.
Tầng gác này vốn là phòng ăn và buồng tiếp khách nên không
Nhà lãnh tụ tài ba. có bàn viết. Bác ngồi viết ở bàn ăn rộng thênh thang. Chiếc
Từ Anh hùng giải phóng dân tộc. máy chữ của Bác đặt trên cái bàn vuông nhỏ, mặt bọc nỉ xanh
khó Phong cách sáng tác đa dạng. kê ở góc buồng. Hết giờ làm việc, mỗi người kiếm một chỗ
a Nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc.
nghỉ luôn tại đó.
Đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
Ngày 28 (28/8/1945), danh sách Chính phủ lâm thời được
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1890 – 1969) sinh ra trong công bố trên các báo chí Hà Nội.
một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở làng Kim Liên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định ngày ra mắt
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người là nhà lãnh tụ tài của Chính phủ lâm thời cũng là ngày nước Việt Nam chính
ba, anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là nhà thơ, thức công bố giành quyền độc lập và thiết lập chính thể dân
nhà văn, nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam. Tuy không chủ cộng hòa.
hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương Ngoài đường lối, chính sách của Chính phủ, phải chuẩn bị cả
(Ngâm thơ ta vốn không ham) nhưng Người đã nhận ra rằng những lời thề để đưa ra trước nhân dân. Bác và Thường vụ
văn chương là một loại vũ khí sắc bén đầy lợi hại để đấu trao đổi về một việc hệ trọng cần bắt tay vào làm ngay: thảo
tranh cách mạng và cũng là phương tiện rất hiệu nghiệm để bản Tuyên ngôn Độc lập.
động viên chiến sĩ, đồng bào: Văn hoá nghệ thuật cũng là một Trong căn buồng nhỏ của ngôi nhà nằm giữa một trong 36
mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy; Nay ở trong phố phường cổ kính, Bác ngồi làm việc, khi thì viết, khi thì
thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Chính vì đánh máy.
vậy, tất cả sáng tác văn học của Bác đều trở thành một bộ Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những người giúp việc
phận trong sự nghiệp đấu tranh cho từng giai đoạn cách mạng trong gia đình không biết ông cụ có cặp mắt sáng, chiếc áo
ở nước ta. Do đó, phong cách sáng tác của Người rất đa dạng nâu bạc thường để hở khuy ngực, hay hút thuốc lá, ngồi cặm
và sự nghiệp văn học của Người cũng rất lớn lao về tầm vóc. cụi ở đó làm gì. Mỗi lần họ tới hỏi cụ có cần gì, cụ quay lại
mỉm cười, chuyện trò đôi câu. Lần nào cụ cũng nói không có
gì cần phải giúp đỡ.
Trong sách Những năm tháng không thể nào quên, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp viết: “Một buổi sáng, Bác và anh Nhân gọi
anh em chúng tôi tới. Bản Tuyên ngôn lịch sử đã thảo xong,
Bác mang đọc để thông qua tập thể. Như lời Bác nói lại sau
này, đó là những giờ phút sảng khoái nhất của Người. Hai
mươi sáu năm trước, Bác đã tới Hội nghị hòa bình Versailles,
nêu lên những yêu cầu cấp thiết về dân sinh, dân chủ cho
những người dân thuộc địa. Cả những yêu cầu tối thiểu đó
cũng không được bọn đế quốc mảy may chấp nhận. Người đã
thấy rõ sự thật là không thể trông chờ ở lòng bác ái của các
nhà tư bản. Người biết chỉ còn trông cậy vào cuộc đấu tranh,
vào lực lượng của bản thân dân tộc mình. Giờ phút này,
Người đang thay mặt cho cả dân tộc hái quả của 80 năm đấu
tranh. Bữa đó, chúng tôi thấy rõ niềm vui rạng rỡ trên khuôn
mặt còn võ vàng của Người”.
Thu Hiền
II. THÔNG TIN TÁC PHẨM: – Là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của Việt
Nam với thế giới.
1. Hoàn cảnh sáng tác: – Tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở Việt
Nam, khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng cho dân
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát xít Nhật, kẻ đang
tộc Việt Nam trên trường quốc tế; là mốc son lịch sử chói lọi
chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ, đã đầu hàng Đồng minh.
mở ra kỉ nguyên độc lập tự do trên đất nước ta: kỉ nguyên độc
Trên toàn quốc, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền.
lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân làm chủ đất nước.
Ngày 19 – 8 – 1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân
Giá trị nghệ thuật:
dân. Ngày 26 – 8 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu
– Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chương yêu nước lớn của
Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang,
thời đại cách mạng. Tác phẩm đã khẳng định mạnh mẽ quyền
Người đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
độc lập của dân tộc Việt Nam, gắn độc lập dân tộc với quyền
– Ngày 2 – 9 – 1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội,
sống của con người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền
trước hàng vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời
thống nhân đạo của người Việt Nam, đó cũng là những cảm
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc
hứng bao trùm trong lịch sử văn học Việt Nam.
lập khai sinh ra nước Việt Nam mới.
– Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực. Dung
– Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong một tình thế vô cùng cấp
lượng tác phẩm ngắn gọn hàm súc; kết cấu tác phẩm chặt chẽ,
bách: nền độc lập vừa mới giành được bị đe dọa bởi các thế
mạch lạc; lập luận đanh thép giàu sức thuyết phục; chứng cứ
lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại
cụ thể xác thực; ngôn ngữ chính xác gợi cảm, tác động mạnh
nước ta. Tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân Đảng
mẽ vào cả nhận thức và tình cảm của người đọc, người nghe.
Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là
quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của bài như
dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của Pháp bị sau:
Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương đương 19/8/1945 Hà Nội - 26/8/1945 Việt Bắc - 2/9/1945 Tuyên
nhiên phải trở lại với người Pháp. ngôn Độc lập
2. Đối tượng và mục đích hướng đến của bản Tuyên ngôn:
– Bản Tuyên ngôn ra đời trước hết là hướng đến đồng bào cả
nước; tiếp sau là các nước trên thế giới; bọn đế quốc, thực
dân đang lăm le xâm lược nước ta đặc biệt là Anh, Pháp, Mĩ.
– Bản Tuyên ngôn chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước
thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam; ngăn
chặn âm mưu chuẩn bị chiếm lại nước ta của bọn đế quốc,
thực dân.
Khi viết Tuyên ngôn Độc lập, Bác viết dưới hai nguồn cảm
hứng chính do là cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân văn.
Cảm hứng yêu nước là tiếng nói của một nhà ái quốc vĩ đại
đã hi sinh cả cuộc đời mình để đi tìm hình hài của Tổ quốc.
Cảm hứng ấy như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt ba phần của bản
tuyên ngôn.
1. “Là người đã viết Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925,
Hồ Chí Minh cảm thấy “sảng khoái nhất” khi cầm bút viết
những lời kết thúc cho chế độ thực dân Pháp và khai sinh ra
chế độ Dân chủ Cộng hòa tại Việt Nam” (Trần Đình Sử)
Biết mình như vậy trong mắt người thân, hồn Trương Ba đau
đớn tột cùng. Vì ông mà những người thân phải khóc: người
vợ dưng dưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua
chát, dằn dỗi, đứa cháu gái òa khóc tức tưởi không hiểu sao
ông nội thân yêu gần gũi lại trở thành một người “xấu lắm, ác
lắm”, chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế
tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không
biết phải làm thế nào. Vì ông mà nhà cửa tan hoang, con trai
định bán khu vườn để mở cửa hàng thịt, vợ định bỏ đi thật xa
để ông thảnh thơi với cô vợ hàng thịt. Ông thẫn thờ, ôm đầu
bế tắc cầu cứu đứa cháu gái, ông run rẩy trong nỗi đau, ông
lặng ngắt như tảng đá để rồi nhận thấy: “mày đã thắng thế rồi
đấy, cái thân xác của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để
lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua chát đã
dẫn đến quyết định dứt khoát, đẩy tình huống vào độ căng
quyết liệt hơn. Những câu độc thoại nội tâm đã phơi trải cơn
bão tố dữ dội và đau đớn trong cuộc đấu tranh giành giật lại
bản thân mình từ bàn tay thô bạo của con quỷ dữ bản năng.
Tất cả đã dẫn tới hành động đứng dậy, lập cập nhưng quả
quyết châm lửa, thắp hương để gọi Đế Thích.
1. Mở bài: KB1:
Còn gì đau khổ hơn khi phải sống trong tình cảnh bên trong
MB1: một đằng, bên ngoài một nẻo như Trương Ba? Thấm thía!
Có những khoảnh khắc, con người ta bị dồn đẩy đến những bi Ngậm ngùi! Chấp nhận giải thoát để được là “tôi toàn vẹn”!
kịch tận cùng phải tự tìm ra con đường giải thoát cho chính Từng lời thoại của vở kịch “Hồn Trương ba, da hàng thịt”
mình. Sợ hãi, đau khổ, tủi hờn, bao nhiêu những hoài nghi về như chất chứa bao trăn trở, suy tư của người viết về cuộc đời,
cuộc đời, khi tháng ngày phía sau đây lại là những bi kịch con người. Và sau tất cả, Lưu Quang Vũ, với đôi mắt nhìn
nối tiếp bi kịch. Có nhiều nhà văn, đã đẩy bi kịch và trong tác đời tỉnh táo, đã để nhân vật của mình được giải thoát, để
phẩm của mình như vậy, để cho nhân vật trải qua biết bao cuộc đời của Trương Ba mãi là một cuộc đời có nghĩa. Còn
nhiêu những xúc cảm “hỉ, nộ, ái ố” đều đủ cả. Trương Ba – bạn, bạn chọn một cuộc sống thực hay chọn sự tồn tại vô
nhân vật chính trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nghĩa?
đã để lại biết bao nhiêu những cảm xúc trong lòng người đọc
bởi tất cả những đau đớn trong bi kịch mà họ phải trải qua, là KB2: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được biết đến là một vở
bi kịch của một đời người, là bi kịch của một số phận, là bi kịch hấp dẫn, có giá trị sâu sắc, thể hiện rõ thế giới quan và
kịch của cả một thời đại mà nhân vật ấy sống, thật đáng nhân sinh quan của nhà viết kịch tài hoa Lưu Quang Vũ. Tác
thương biết bao! phẩm khép lại nhưng đã đặt ra những câu hỏi để người đọc,
người nghe tự vấn bản thân, rằng: ta đã sống đúng là ta toàn
MB2:
vẹn chưa, ta đã hết mình tự đấu tranh để hoàn thiện nhân cách
Trương Ba – mọi chuyện qua rồi, ông đã nhất định không
chư? Tư tưởng triết lí vừa biện chứng, vừa lạc quan, cao
sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và cuối cùng,
thượng của Lưu Quang Vũ thể hiện qua “Hồn Trương Ba, da
ông cũng đã tự giải thoát được cho cuộc đời của mình, để mọi
hàng thịt” sẽ là những bài học mãi gây ấn tượng trong lòng
thứ được trở về đúng chỗ của nó. Lưu Quang Vũ thật tài tình
mỗi chúng ta.
biết mấy, khi cứ thờ ơ dửng dưng như vậy khi viết về bi kịch
của nhân vật trong tác phẩm của mình. Như đâm vào trái tim
bạn đọc, thế nhưng cũng nhẹ nhàng dùng bàn tay xoa dịu hết
bao đau thương. Biết bao nhiêu năm trôi qua rồi, mà những
tấn bi kịch về con người như Trương Ba vẫn được nhắc hoài,
nhắc mãi như thế, gửi gắm thông điệp nhân đạo cao cả của
người nghệ sĩ tài năng.
MB3:
Thôi ngừng van xin cuộc đời, bởi lẽ cuộc đời vẫn thường tàn
nhẫn đem đến cho người ta những bi kịch đớn đau như vậy.
Thôi đừng mong mỏi sẽ có phép màu xảy ra, khi ta chỉ đi
sống nhờ, sống dựa , vay mượn những thứ không phải của
mình để phục vụ lợi ích của bản thân mình. Con người không
toàn vẹn vậy thì chính xác sẽ chẳng bao giờ thống nhất được.
Đó là bi kịch của ông Trương Ba, trong tác phẩm “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
Những bi kịch văn học cứ tự nhiên như vậy, gây ám ảnh
trong lòng người đọc với những day dứt không nguôi và
câu hỏi đó, vẫn còn nơi đây bỏ ngỏ: “Sống thế nào, cho ra
một con người?”.