D N S TH NG 2

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 14

BÀI TẬP THÁNG THỨ 2:

TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ


Tóm tắt án:

Quyết định số 382/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao

Bà Nga là con nuôi của ông Bình và bà Như và sống với nhau từ lúc bà Nga còn
nhỏ đến khi lập gia đình. Vào năm 2003 thì vợ chồng ông Tuyền và bà Hằng có xin
ông cha mẹ bà Nga cho sử dụng mặt bằng tầng trệt để kinh doanh, sau đó lại xin
vào nhà ở để tiện bề đi lại. Lúc này thì vợ chồng ông Tuy ền có ý đ ịnh chi ếm đo ạt
nhà của cha mẹ bà Nga nên luôn gây sự hiểu lầm dẫn đến bà Nga và cha m ẹ bà b ất
hòa làm bà phải ra ngoài ở riêng. Nhưng bà Nga vẫn yêu thương và thường xuyên
về chăm sóc cha mẹ. Em của cha bà Nga là bà Kiều đã l ấy h ộ kh ẩu và gi ấy t ờ nhà
của cha mẹ bà. Ông Tuyền thấy vậy, lợi dụng lúc làm lại hộ khẩu cho gia đình ông
Bình đã tách bà Nga ra và thêm vợ chồng cùng các con của mình vô hôn kh ẩu nhà
ông Bình. Sau khi cha bà Nga mất thì vợ chồng ông Tuy ền còn t ự bi ết di chúc và
bắt bà Như lăn lay với nội dung là để hết nhà đất cho vợ ch ồng ông. Nay bà Nga
yêu cầu vợ chồng ông Tuyền phải trao trả lại nhà đất, bà Kiều phải giao hôn kh ẩu
và giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất cho bà.

Quyết định số 545/2009/DS-GĐT ngày 26/10/2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao

Cha mẹ bà Nguyệt có 02 người con là bà và bà Thuyết. Lúc còn sống, cha m ẹ


bà đã tạo lập được 01 căn nhà và vườn cây ăn trái. Sau khi cha bà m ất thì m ẹ bà l ập
di chúc để lại toàn bộ di sản trên cho vợ chồng bà. Nhưng vườn cây đã được m ẹ bà
cho thuê 04 năm và tiền thuê do bà Thuyết giữ. Được biết là di chúc do mẹ bà thảo
và bà đánh máy và được ông Sinh làm chứng. Nay bà Nguyệt yêu cầu được thừa kế
toàn bộ tài sản theo di chúc.

*Hình thức sở hữu


Câu 1: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2005? Nêu rõ các hình thức
sở hữu trong BLDS.
Trả lời:
 Có 6 hình thức sở hữu trong BLDS 2005
 Các hình thức sở hữu bao gồm:
 Sở hữu nhà nước (Điều 200 tới Điều 207, BLDS 2005)
 Sở hữu tập thể (Điều 208 tới Điều 210, BLDS 2005)
 Sở hữu tư nhân (Điều 211 tới Điều 213, BLDS 2005)
 Sở hữu chung (Điều 214 tới Điều 226, BLDS 2005)
 Sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Điều 227
tới Điều 229, BLDS 2005)
 Sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp (Điều 230 tới Điều 232, BLDS 2005)
Câu 2: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2015? Nêu rõ các hình thức
sở hữu trong BLDS.
Trả lời:
 Có 3 hình thức sở hữu trong BLDS 2015
 Các hình thức sở hữu bao gồm:
 Sở hữu toàn dân (Điều 197 tới Điều 204, BLDS 2015)
 Sở hữu riêng (Điều 205 tới Điều 206, BLDS 2015)
 Sở hữu chung (Điều 207 tới Điều 220, BLDS 2015)
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi về hình thức của hai Bộ luật
trên.
Trả lời:
BLDS năm 2005 quy định năm hình thức sở hữu, bao gồm: Sở hữu nhà
nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. BLDS năm 2015 đã
lược bỏ một số hình thức sở hữu và có tên gọi của mỗi hình thức khác với
tên gọi được quy định tại BLDS năm 2005. Cụ thể, BLDS năm 2015 chỉ quy
định ba hình thức sở hữu, đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu riêng, sở hữu chung.
Lý giải cho thay đổi này Ban soạn thảo BLDS (sửa đổi) phân tích:“Theo
quan điểm này thì khi một người (cá nhân, pháp nhân) có toàn quyền chi phối
đối với một tài sản nhất định thì xuất hiện hình thức sở hữu là sở hữu riêng;
khi có từ hai người (cá nhân, pháp nhân) trở lên cùng có quyền nhất định
trong việc thực hiện các hành vi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một
tài sản nhất định thì xuất hiện sở hữu chung; khi toàn thể nhân dân thông qua
Nhà nước của mình thực hiện các quyền của chủ sở hữu thì có sở hữu toàn
dân, mà các nước gọi là sở hữu nhà nước”[1].
Việc sửa đổi căn bản này đã khắc phục được hạn chế về các hình thức
sở hữu theo quy định của pháp luật hiện hành. Bởi việc xác định các hình
thức sở hữu phải được dựa trên một tiêu chí thống nhất, trong khi đó BLDS
năm 2015 vừa dựa vào tiêu chí chủ thể, vừa dựa vào tiêu chí tính chất của
việc sở hữu mà phân chia thành năm hình thức khiến các hình thức sở hữu
này vừa bị trùng lặp, thừa và vừa thiếu.
Trong quá trình sửa đổi, bổ sung các quy định về sở hữu toàn dân, rất
nhiều quan điểm cho rằng, sở hữu toàn dân không phải là một hình thức sở
hữu độc lập mà chỉ là một dạng cụ thể của hình thức sở hữu chung không
phân chia (sở hữu chung hợp nhất). Không đồng tình với quan điểm này, Ban
soạn thảo đã đưa ra rất nhiều lập luận để để chứng minh hình thức sở hữu
toàn dân là một hình thức sở hữu độc lập, với lý do:
- Một là sở hữu toàn dân phải là một hình thức sở hữu độc lập, sự
"định vị" này đã được ghi nhận trong Điều 53 Hiến pháp năm 2013, theo đó,
"Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý".
- Hai là ở Việt Nam, tuyệt đại đa số các tài sản thuộc sở hữu toàn dân
có giá trị kinh tế lớn, có tầm quan trọng và ảnh hưởng đặc biệt đến sự phát
triển của kinh tế, xã hội, quốc phòng. Phạm vi khách thể của quyền sở hữu
toàn dân so với các hình thức sở hữu khác đã làm cho hình thức sở hữu này có
một vị trí độc lập, không thể lẫn lộn với các hình thức sở hữu khác.
- Ba là cơ chế thực hiện quyền sở hữu toàn dân hoàn toàn khác với các
cơ chế thực hiện các hình thức sở hữu khác. Cụ thể là, trong sở hữu chung,
chủ thể của quyền này luôn luôn được xác định về tên gọi cũng như về số
lượng; mặt khác, những người được gọi là đồng sở hữu đều là những người
trực tiếp thực hiện các quyền năng của mình trên tài sản và trực tiếp thụ
hưởng các lợi ích từ việc thực hiện các quyền năng này. Trong khi đó, trong
sở hữu toàn dân, căn cứ xác lập mang tính đặc thù rất cao: sức lực và sự đóng
góp của toàn dân cùng với sự dịch quyền pháp lý qua các thời kỳ phát triển.
Khi thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu, người thực hiện các quyền
này lại là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương theo sự phân
công, phân cấp, phân quyền một cách cụ thể theo quy định của pháp luật.
- Bốn là không chỉ ở Việt Nam mà ở một số quốc gia khác, pháp luật
cũng quy định hình thức sở hữu nhà nước, tuy nhiên, trong Hiến pháp cũng
như trong BLDS của các nước này đều ghi nhận đó là một hình thức sở hữu
độc lập[2].
Tài liệu tham khảo
1 Tác giả Trần Thị Huệ ,Những điểm mới nổi bật về quyền sở hữu và những
quyền khác trong bộ luật dân sự năm 2015 , xuất bản năm 2016
2 Bộ Tư pháp, Những nội dung cơ bản của Phần thứ hai “Quyền sở hữu và
các vật quyền khác”- Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), truy cập ngày
02/6/2016, từ http://moj.gov.vn/dtblds/Pages/tai-lieu-lien-quan.aspx?
ItemID=275.
3. Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân
sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP Hồ CHí
Minh.
*Một số vấn đề liên quan tới chế định thừa kế
Câu 1: Nếu vào thời điểm lập di chúc, người lập di chúc không minh mân thì di
chúc có giá trị pháp lý không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
 Nếu tại thời điểm lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di chúc
đó không có giá trị pháp lý
 Căn cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 630 BLDS 2015: “Người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ,
cưỡng ép”
Câu 2: Liên quan đến vụ việc trong quyết định số 382, theo Toà phúc thẩm khi
lập di chúc năm 2005 cụ Như có minh mẫn không?Vì sao tòa phúc thẩm đã
quyết định như vậy?
Trả lời :
- Trong Quyết định số 382, Tòa phúc thẩm cho rằng không có đủ căn cứ để
khẳng định cụ Như minh mẫn trong lúc lập di chúc.
- Bởi vì căn cứ vào công văn số 363/SYT-NVTH ngày 25/9/2006 của Sở y tế
tỉnh An Giang xác định Bệnh xá công an chỉ được khám cho cán bộ trong ngành
công an, còn việc khám sức khỏe cho bà Như là không đúng quy định. Tòa phúc
thẩm cho rằng đây là khám dịch vụ để cố tình quy kết cho di chúc của bà Như
không hợp pháp. Do đó, giấy chứng nhận sức khỏe này của bà Như không đủ tính
khách quan, minh bạch để xác nhận thật sự bà Như có minh mẫn hay không tại thời
điểm lập di chúc.
Câu 3: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm
2005 cụ Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như
vậy?
Trả lời:
- Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005
cụ Như có minh mẫn.
- Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy là vì: “ông On, ông Kiến, ông
Hiếu đều có lời khai xác nhận tại thời điểm bà Như lập di chúc, trạng thái tinh
thần của bà Như vui vẻ, minh mẫn. Ông On, ông Kiếm và ông Hiếu không phải là
người được hưởng thừa kế, không phải là người có quyền và nghĩa vụ liên quan
đến nội dung di chúc…” và “ kết luận của bác sỹ Tăng Diệu Hiền về tình trạng
sức khỏe và tinh thần của bà Trần Thị Như được ghi trong Giấy chứng nhận khám
sức khỏe ngày 26/12/2004, trước ngày bà Như lập di chúc 05 ngày không mâu thuẫn
với lời khai xác nhận của ông On, ông Kiếm và ông Hiếu”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Trả lời:
- Toà giám đốc thẩm công nhận di chúc hợp pháp và bà Như lập di chúc trong
trạng thái minh mẫn,vợ chồng ông Truyền, bà Hằng được hưởng theo di chúc của
bà Như.
- Quyết định trên của Toà giám đốc thẩm là phù hợp với quy định của pháp
luật về thừa kế theo di chúc. Bà Như có đủ điều kiện về nội dung và hình thức của
di chúc theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2005 nên hiển nhiên di
chúc phải được công nhận là hợp pháp. Người làm chứng cho việc lập di chúc cũng
phù hợp với Điều 654 của Bộ luật này.
Câu 5: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi
lập di chúc năm 2001 bà Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã
quyết định như vậy?
Trả lời:
- Theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc cụ Biết không minh mẫn. Vì khi lập di
chúc, cụ Biết đã 84 tuổi, trước đó cụ Biết còn phải nhập viện với triệu chứng
chuẩn đoán là thiếu máu cơ tim, xuất huyết não, cao huyết áp, cụ Biết lập di chúc
vào ngày 03/01/2001 thì ngày 14/01/2001 cụ Biết chết.
Câu 6: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm
2001 cụ Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như
vậy?
Trả lời:
Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ
Biết hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt. Vì trong bản án có ghi “Tại các lời khai của
ông Lương Văn Dầm ngày 7/2/2002 và của ông Nguyễn Văn Thắng ngày 1/4/2002
đều xác nhận khi lập di chúc, cụ Biết là người minh mẫn và đọc (nói) nội dung di
chúc cho ông Thắng viết. Mặt khác, ngày 04/01/2001 cụ Biết ký (điểm chỉ) hợp
đồng cho bà Trần Hoài Mỹ thuê vườn cây với thời hạn thuê 4 năm, theo lời khai của
bà Mỹ ngày 11/3/2002 thì trước ngày ký hợp đồng 1 tuần, cụ Biết có gọi bà Mỹ
đến để thỏa thuận về việc thuê vườn cây và khi cụ Biết điểm chỉ vào bản hợp
đồng thì cụ Biết là người minh mẫn, còn chỉ dẫn cho bà Mỹ cách chăm sóc vườn
cây. Do đó, có căn cứ xác định cụ Biết lập di chúc ngày 03/01/2001 trong tình trạng
minh mẫn”.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm?
Trả lời:
Nhóm đồng ý với hướng giải quyết trên của Tòa Giám đốc thẩm là Tòa giám
đốc thẩm công nhận di chúc hợp pháp, cụ Biết lập di chúc trong trạng thái hoàn
toàn minh mẫn và hủy bản án dân sự phúc thẩm số 263/2007/PTDS ngày
04/09/2009 của Tòa Án nhân dân tỉnh Bình Dương về vụ án “tranh chấp về thừa kế
tài sản” giữa nguyên đơn là bà Đỗ Thị Nguyệt (Bổn), ông Lê Sơn Thủy với bị đơn
là bà Đỗ Minh Thuyết (Ánh), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn
Hữu Hùng, bà Nguyễn Thị Ngọc Diễm, ông Nguyễn Hữu Hoàng, bà Trần Hoài Mỹ
và bà Nguyễn Thị Minh, hủy bản án dân sự phúc thẩm số 263/2007/PTDS ngày
04/10/2007 ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Vì nếu trong quá
trình xét xử nếu không có chứng cứ mới thì phải công nhận di chúc của cụ Biết lập
ngày 03/01/2001 có hiệu lực đối với tài sản của cụ Biết trong khối tài sản chung
của cụ Kiệt và phần tài sản của cụ Biết được hưởng thừa kế di sản của cụ Kiệt;
phần di sản của cụ Kiệt chia thừa kế theo pháp luật cho bà Nguyệt, bà Thuyết.
Câu 8: Di tặng là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người
khác.
Cơ sở pháp lý: Điều 646 BLDS 2015:
“1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người
khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
2.Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người
để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
3.Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di
tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của
người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn
lại của người này”.
Câu 9: Để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn những điều kiện gì? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Di tặng cũng là di chúc. Vì vậy, để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn
những điều kiện giống như di chúc.
-Yêu cầu về nội dung được quy định tại Điều 631 BLDS 2015 về Nội dung
của di chúc:
“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
Ngày, tháng, năm lập di chúc;
Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội
dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết
di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xoá, sửa
chữa”.
-Yêu cầu về hình thức được quy định từ Điều 633 đến Điều 635 BLDS 2015.
Câu 10: Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng cho ai? Đoạn nào của
quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng tài sản của mình cho ba
người cháu là ông Hùng, bà Diễm, ông Hoàng.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời là: “Cụ Biết di tặng tài sản chung và
riêng cho ba cháu ngoại là ông Hùng, bà Diễm, ông Hoàng. Tờ truất quyền do cụ
Biết ký tên và lăn tay”.
Câu 11: Di tặng trên có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của Quyết
định cho câu trả lời?
Trả lời:
Di tặng trên không được Tòa án chấp nhận. Vì nội dung di tặng được cụ Biết
lập trong tờ truất quyền hưởng thừa kế của bà Nguyệt cùng chồng và con nuôi của
bà Nguyệt. Mà trong bản án trên, Tòa án không công nhận “Tờ truất quyền hưởng
di sản” lập ngày 20/9/1997 này của cụ Biết. Cụ thể trong bản án là đoạn “Riêng cụ
Biết thì từ năm 1997 đến năm 2001 có lập các văn bản gồm “Tờ truất quyền
hưởng thừa kế di sản” lập ngày 20/9/1997; “Tờ di chúc” lập ngày 15/9/2000 và “Tờ
di chúc” lập ngày 03/01/2001. Tòa án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất
quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 và “Tờ di chúc” lập ngày 15/9/2000 bởi
các văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật về cả nội dung và hình
thức văn bản là có căn cứ”. Hơn nữa, trong Quyết định của Tòa án chỉ “công nhận
di chúc của cụ Biết lập ngày 03/01/2001 có hiệu lực đối với tài sản của cụ Biết
trong khối tài sản chung với cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết được hưởng thừa kế
di sản của cụ Kiệt; phần di sản của cụ Kiệt chia thừa kế theo pháp luật cho bà
Nguyệt và bà Thuyết”.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến di tặng.
Trả lời:
Tòa án giải quyết không chấp nhận di tặng của cụ Biết cho ba cháu ngoại là
ông Hùng, bà Diễm và ông Hoàng là đúng. Vì Điều 646 BLDS 2015 quy định người
lập di chúc được dành một phần di sản để tặng cho người khác, tuy nhiên cụ Biết
đã di tặng tài sản chung và riêng cho ba cháu là không đúng pháp luật; ngoài ra, tờ
“Truất quyền hưởng di sản” lập ngày 02/01/2001 của cụ Biết không phù hợp với
quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức.
Câu 13: Truất quyền thừa kế là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Pháp lệnh thừa kế quy định: “Người lập di chúc” được quyền “truất quyền
hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất
thiết phải nêu lý do” (điểm đ khoản 1 Điều 11). Quyền này vẫn được duy trì tại
khoản 1 Điều 626 BLDS năm 2015 về Quyền của người lập di chúc: “1. Chỉ định
người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”. Truất quyền có
nghĩa là: một người đáng ra được hưởng di sản của người khác để lại nhưng vì
một số lý do họ có thể không được hưởng di sản này nữa. Đó có thể là do pháp
luật quy định hoặc do ý chí của người để lại di sản:
Trường hợp thứ nhất, “người không được quyền hưởng di sản” do pháp luật
quy định. Ở đây, pháp luật trừng phạt một người thừa kế đã phạm lỗi, do có hành
vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội .
Trường hợp thứ hai, là truất quyền hưởng di sản theo ý chí của người để lại
thừa kế. Trong trường hợp này, người để lại di sản muốn gạt một hay nhiều người
thừa kế theo pháp luật ra ngoài diện được hưởng di sản, không cho những người
này hưởng di sản của mình.
Câu 14: Trong quyết định năm 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của ai?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Trả lời:

Trong quyết định năm 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của bà Nguyệt
cùng chồng và con nuôi của của bà Nguyệt. Đoạn của Quyết định cho thấy câu trả
lời:

“…Ngày 20/09/1997 cụ Biết đã lập tờ truất quyền hưởng thừa kế, có nội
dung: Cụ Biết được cụ Kiệt giao quyền định đoạt tài sản theo t ờ ủy quy ền ngày
16/07/1997, cụ Biết truất quyền hưởng thừa kế của bà Nguyệt cùng chồng và con
nuôi của bà Nguyệt đối với những tài sản chung và riêng của cụ Kiệt, c ụ Bi ết tại
ấp Bình Phước. Cụ Biết di tặng tài sản riêng và chung cho ba cháu ngo ại là ông
Hùng, bà Diễm và ông Hoàng. Tờ truất quyền do cụ Biết ký tên và lăn tay.”

Câu 15: Truất quyền trên của cụ Biết có được Tòa án ch ấp nh ận hay không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Trả lời:

Truất quyền trên của cụ Biếc không được Tòa án chấp nhận. Đoạn của Quyết
định cho câu trả lời:

“Riêng cụ Biết thì từ năm 1997 đến năm 2001 có lập các văn b ản, g ồm “T ờ
truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/09/1997; “Tờ di chúc” ngày 15/09/2000 và
“Tờ di chúc” lập ngày 03/01/2001. Tòa án cấp phúc thẩm không công nh ận “T ờ
truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/09/1997; “Tờ di chúc” ngày 15/09/2000 b ởi
các văn bản này không phù hợp với quy định c ảu pháp lu ật c ả v ề n ội dung và hình
thức văn bản là có căn cứ.”

Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án liên quan
đến truất quyền thừa kế.
Trả lời:

- “tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 văn bản này không phù
hợp với các quy định của pháp luật cả về nội dung và hình th ức văn b ản qua đó ta
thấy việc toà án cấp phúc thẩm không công nhận là hoàn toàn chính xác.

Câu 17: Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài s ản nào? Đo ạn
nào của quyết định cho câu trả lời.

Trả lời:
Trong di chúc năm 2001 cụ Biết đã định đoạt phần tài s ản gồm nhà và đ ất
vườn cây ăn trái diện tích 6.278m 2. Đoạn cho câu trả lời là: “Ngày 03/01/2001 cụ
Biết lập di chúc có nội dung: Sau khi cụ qua đời thì bà Thuyết đ ược toàn quy ền
thừa hưởng phần tài sản là nhà và đất vườn cây ăn trái diện tích
6.278m2. Nội dung di chúc do cụ Biết đọc cho ông Nguyễn Văn Thắng viết, cụ Biết
lăn tay có ông Thắng và ông Lương Văn Dầm làm chứng ký tên”.

Câu 18: Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá tr ị pháp lý
phần nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo Viện kiểm sát và Tòa án dân sự, di chúc 2001 có giá trị pháp lý ph ần di
sản của cụ Biết. Đoạn của Quyết định cho câu trả lời là:
Theo Viện kiểm sát: “Còn “Tờ di chúc” do cụ Biết lập ngày 03/01/2001 đ ể
lại toàn bộ di sản cho bà Thuyết do cụ Biết đọc cho ông Nguyễn Văn Th ắng vi ết
hộ, tại bản di chúc này ông Thắng cũng là người ký tên làm chứng cùng v ới ông
Lương Văn Dầm, đã tuân thủ đúng với các quy định của Bộ luật dân sự nên là b ản
di chúc hợp pháp một phần, phần cụ Biết chung với cụ Kiệt, còn phần cuả cụ Kiệt
chia theo pháp luật”.
Theo Tòa Dân sự: “…nếu không có chứng cứ mới thì phải công nhận di chúc
của cụ Biết lập ngày 03/01/2001 có hiệu lực đối với tài sản của cụ biết trong khối
tài sản chung với cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết đ ược h ưởng th ừa k ế di s ản c ủa
cụ Kiệt…”
Câu 19: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và
Tòa dân sự.
Trả lời:
Nhóm em đồng ý với hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và Tòa dân
sự.
Cụ Biết theo như bản án thì từ năm 1997 đến năm 2001 đã lập “Tờ phế truất
quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997, “Tờ di chúc” lập ngày 15/9/2000 và “T ờ
di chúc” lập ngày 03/01/2001. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không công nh ận “T ờ
truất quyền hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 và “Tờ di chúc” lập ngày 15/9/2000
vì chúng đều không phù hợp với quy định của pháp luật về cả nội dung và hình
thức văn bản. Vậy nên chỉ có “Tờ di chúc” lập ngày 03/01/2001 của c ụ Bi ết đ ược
công nhận.
Cụ Biết lập “Tờ di chúc” vào ngày 03/01/2001 trong trạng thái hoàn toàn
minh mẫn, sáng suốt, đọc (nói) nội dung cho ông Nguyễn Văn Thắng viết và có ông
Lương Văn Dầm và ông Thắng kí tên làm chứng vào bản di chúc. Vậy nên bản di
chúc này là hợp pháp.
Căn cứ vào các lẽ trên nên công nhận di chúc c ủa c ụ Bi ết l ập ngày
03/01/2001 có hiệu lực đối với tài sản của cụ Biết trong kh ối tài s ản chung v ới c ụ
Kiệt và phần tài sản cụ Biết được hưởng thừa kế di sản của cụ Kiệt; phần di s ản
của cụ Kiệt chia thừa kế theo pháp luật cho bà Nguyệt và bà Thuyết.
Câu 20: Sự khác nhau giữa “truất quyền thừa kế” và “không được hưởng di
sản” trong chế định thừa kế. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Sự khác nhau giữa “truất quyền thừa kế” và “không được hưởng di sản” trong chế
định thừa kế:
Yếu tố Truất quyền thừa kế Không được hưởng di sản

Hình Theo Điều 626 BLDS 2015, Được áp dụng đối với cả hai hình
thức áp truất quyền thừa kế chỉ có thế thức là thừa kế theo di chúc và thừa
dụng được áp dụng đối với hình kế theo pháp luật.
thức thừa kế theo di chúc.
Chủ thể Do ý chí của người lập di Do ý chí của nhà nước, được quy
chúc. định theo Điều 621 BLDS 2015.
Đố i Luôn là người thừa kế theo Không bị giới hạn là người thừa kế
tượng pháp luật của người lập di theo luật của người lập di chúc.
chúc.
Không quy định bắt buộc Phải xuất phát từ lý do rõ rang, căn
người lập di chúc phải nêu rõ cứ theo Khoản 1, Điều 621 BLDS
Lý do lý do, tôn trọng ý chí tự do định 2015.
đoạt của người để lại di sản.
Không được hưởng di sản Không có quyền được hưởng di sản
Hệ quả thừa kế của người để lại di thừa kế chỉ trừ trường hợp người để
pháp lý sản dưới bất cứ hình thức nào. lại di sản đã biết hành vi của những
Tuy nhiên, trong một số trường người đó nhưng vẫn cho họ hưởng
hợp người thừa kế không phụ di sản theo di chúc theo Khoản 2,
thuộc vào nội dung di chúc, Điều 621 BLDS 2015.
những người thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc
dù bị truất quyền thừa kế vẫn
được hưởng một phần tài sản
nhất định.

Câu 21: Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà Nga
có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình không? Đoạn
nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
- Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà Nga có
hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Bà Nga là con nuôi nhưng đã không
cấp dưỡng bố mẹ khi tuổi già dẫn đến Hội chữ thập đỏ phải cung cấp thức ăn.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 646 Bộ luật dân sự năm 1995, điểm b
khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sựu năm 2005 người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
nuôi dưỡng người để lại di saen không được hưởng di sản.”
Câu 22: Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình thì bà Nga có được hưởng thừa kế di sản của
ông Bình không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
- Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
nuôi dưỡng ông Bình thì bà Nga không được hưởng thừa kế di sản của ông Bình.
- Cơ sở pháp lý: điểm b khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 quy định về người
không được quyền hưởng di sản: “Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng người để lại di sản”
Câu 23: Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về hướng giải quyết trên của Toàn án
liên quan đến hành vi của bà Nga.
Trả lời:
- Theo em, bà Như tuy là con nuôi nhưng khi cha mẹ già yếu lại không chăm
sóc cha mẹ. Ngược lại, còn có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng
đối với cha mẹ, dẫn đến việc Hội chữ thập đỏ phải cung cấp thức ăn. Điều đó thể
hiện qua đơn từ con của ông Bình, bà Như, tuy đơn chấm dứt việc nuôi con nuôi là
chưa đúng với thủ tục luật định và không được chấp nhận nó đã phản ánh phần
nào việc bà Nga bạc đãi cha mẹ nuôi của mình. Do vậy, em không đồng ý về hướng
giải quyết của Tòa khi cho rằng bà Nga không bị tước quyền hưởng thừa kế.

You might also like