MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mỗi quốc gia muốn ổn định , kinh tế phát triển , xã hội văn minh, giàu có cần phải dự vào nhiều yếu tố . Một trong số những yếu tố quan trọng nhất đó là tiềm lực về tài chính mà điển hình phải nói tới ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất của nền kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân , cũng như mối quan hệ khăn khít với tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính dể đảm bảo nguồn chi tiêu của nhà nước, và là công cụ điều tiết nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn định phát triển đồng đều giữa các thành phần kinh tế và đảm bảo thu nhập cho người dân.
Bởi tầm quan của NSNN(ngân sách nhà nước) như vậy nên việc phân tích cơ cấu của NSNN cũng vô cùng thiết yếu. nó có thể cho chúng ta thấy rõ tình hình thu chi biến động như thế nào trong những năm vừa qua và trong những năm sắp tới. Từ đó mà chúng ta có thể thiết lập thu chi một cách khoa học, hợp lý và phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước hơn. Hơn nữa, trong thời gian gần đây việc thu chi của NSNN có nhiều biến động và có chiều hướng mất cân bằng thu chi. Việc này ảnh hưởng không hề nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế. Thiết nghĩ việc phân tích cơ cấu NSNN cực kì quan trọng nên nhóm 13 chúng tôi đã quyết định chon đề tài :” Phân tích cơ cấu NSNN trong thời gian qua. Nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt ngân sách nặng nề” để nghiên cứu.
Mục tiêu
Phân tích tình hình thu chi NSNN trong giai đoạn 2010 đến nay
Tìm hiểu nguyên nhân của sự thâm hụt ngân sách nặng nề
Đề ra một số giải pháp giải quyết vấn đề thâm hụt trên.
Phạm vi
Đề tài nghiên cứu sâu và cơ cấu thi chi của NSNN giai đoạn năm 2010 đến nay và nguyên nhân thâm hụt ngân sách nặng nề. Bởi vậy số liệu sử dụng trong bài là số liệu của các năn 2010, 2011, 2012, 2013, 2014. 2015 và 2016.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÂN SÁCH VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ngân sách nhà nước
Khái niệm và hệ thống NSNN :
Khái niệm ngân sách Nhà nước:
Thuật ngữ “ngân sách Nhà nước” được phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia, tuy nhiên chưa có khái niệm thống nhất cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay có 2 quan niệm phổ biến về ngân sách Nhà nước là:
NSNN là bản dự toán thu – chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian xác định, thường là 1 năm.
NSNN là quỹ tiền tệ của Nhà nước.
Ở Việt Nam, Luật Ngân sách Nhà nước ngày 16/12/2002 có ghi: “NSNN là toàn bộ các khoản thuu, chi của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng,nhiệm vụ của Nhà nước”
Hệ thống ngân sách Nhà nước:
Là một quỹ tiền tệ với các khoản thu và khoản chi của nó.
Là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
Vậy, về bản chất, có thể xác định: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối va sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
Hệ thống ngân sách Nhà nước bao gồm: ngân sách trung ương và ngân sách địa phương
Đặc điểm ngân sách Nhà nước:
NSNN vừa là nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy Nhà nước, vừa là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội nên có những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn liền với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định.
NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước và luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng.
NSNN là một bản dự toán thu chi. Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lập NSNN và đề ra các thông số quan trọng có liên quan đến chính sách mà Chính phủ phải thực hiện trong năm tài khóa tiếp theo.
NSNN là một bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. Hệ thống tài chính quốc gia bao gồm: tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, trung gian tài chính và tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình. Trong đó tài chính Nhà nước là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia.
Đặc điểm của NSNN luôn gắn liền với tính giai cấp. Trong thời kỳ phong kiến, mô hình ngân sách sơ khai và tuỳ tiện, lẫn lộn giữa ngân khố của Nhà vua với ngân sách của Nhà nước phong kiến. Hoạt động thu – chi lúc này mang tính cống nạp – ban phát giữa Nhà vua và các tầng lớp dân cư, quan lại, thương nhân, thợ thuyền và các nước chư hầu (nếu có).
NSNN được giới hạn thời gian sử dụng, được quy định nội dung thu - chi, được kiểm soát bởi hệ thống thể chế, báo chí và nhân dân.
Vai trò của ngân sách Nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của Ngân sách Nhà nước được thay đổi và trở nên hết sức quan trọng .Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc gia Ngân sách Nhà nước có các vai trò như sau:
Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước: Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách Nhà nước, để đảm bảo cho hoạt động của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi phải có những nguồn tài chính nhất định. Đây là vai trò lịch sử của Ngân sách Nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào, cơ chế kinh tế nào ngân sách Nhà nước đều phải thực hiện.
Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát: Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt động của thị trường.
Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất: Để định hướng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi ngân sách. Bằng công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt khác Nhà nước sử dụng thuế với các loại thuế, các mức thuế suất khác nhau sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển và hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào những vùng những lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng đã định. Nhà nước có thể tạo điều kiện và hướng dẫn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào những vùng, lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư: Ngân sách Nhà nước là công cụ tài chính hữu hiệu được Nhà nước sử dụng để điều tiết thu nhập, với các sắc thuế như thuế thu nhập luỹ tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt … một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách mặt khác lại điều tiết một phần thu nhập của tầng lớp dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh công cụ thuế, với các khoản chi của ngân sách Nhà nước như chi trợ cấp, chi phúc lợi cho các chương trình phát triển xã hội: phòng chống dịch bệnh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hoá gia đình… là nguồn bổ sung thu nhập cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp .
=>Các vai trò trên của Ngân sách Nhà nước cho thấy tính chất quan trọng của Ngân sách Nhà nước, với các công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế .
Thu ngân sách Nhà nước:
Khái niệm và đặc điểm của thu ngân sách Nhà nước:
Khái niệm thu ngân sách Nhà nước:
Là quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực để huy động một bộ phận giá trị của cải xã hội thành quỹ NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thu ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản thu thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp cúa các tổ chức cá nhân; các khoản viện trợ và các khoản thu khác của pháp luật.
Đặc điểm thu ngân sách Nhà nước:
Là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện chức năng niệm vụ của Nhà nước.
Mọi khoản thu của Nhà nước đều được thể chế hoá bằng chính sách, chế độ và pháp luật của Nhà nước.
Thu NSNN phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế.
Thu NSNN phải thực hiện trên nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu.
Nội dung và phân loại của thu ngân sách Nhà nước:
Nội dung của thu ngân sách Nhà nước:
Các khoản thu từ thuế: Thuế là nguồn thu quan trọng của NSNN. là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
Các khoản thu từ phí, lệ phí:
Phí: là khỏan thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng không thuần túy theo quy định của pháp luật và là khỏan tiền mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó. Dịch vụ công cộng thuần túy là những dịch vụ mà Nhà nước có thể lượng hóa được mức độ sử dụng của từng cá nhân tổ chức vì vậy mà Nhà nước có thể thu lại một phần hoặc tòan bộ chi phí đã bỏ ra để cung cấp dịch vụ cho các đối tượng này thông qua chế độ thu phí.
Lệ phí: là những khỏan thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý của Nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý hành chính Nhà nước theo qui định của pháp luật.
Phân loại của thu ngân sách Nhà nước:
Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp thuộc sở hữu Nhà nước.
Tiền thu hồi vốn tại các cơ sở của Nhà nước.
Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước:
• Thu từ hoạt động sự nghiệp
• Thu từ bán hoặc cho thêu tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
• Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản.
Bồi dưỡng nguồn thu:
Trong khi khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia tăng thu cho ngân sách, Nhà nước cần phải dành kinh phí thỏa đáng cho để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt.
Chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích tích tụ vốn cho doanh nghiệp và dân cư.
Chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước phải được đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân.
Dùng ngân sách Nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng trong những lĩnh vực then chốt, nhằm tạo ra nguồn tài chính mới.
Nhà nước cần có chính sách tiết kiệm, khuyến khích mọi người tiết kiệm tiêu dùng, tinh giản bộ máy, cải cách hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu tư.
Thực hiện mở rộng dịch vụ đăng ký thuế, khai thuế điện tử; mở rộng hệ thống nhận tờ khai thuế qua mạng và kê khai thuế trực tuyến, nộp thuế qua hệ thống ngân hàng thương mại, kết nối thông tin giữa bốn ngành thuế – hải quan – kho bạc – tài chính.
Các ngành, các cấp trên địa bàn tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định quản lý giá để xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tăng giá nhằm thu lợi bất chính, định giá bất hợp lý, đầu cơ nâng giá…
Theo dõi kịp thời biến động về giá cả để thu đầy đủ các khoản thu vào NSNN.
Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu:
GDP bình quân đầu người: GDP bình quân đầu người là một yếu tố khách quan quyết định mức động viên của NSNN.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế: Đây là yếu tố quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN. Do vậy, khi xác định tỷ suất thu Ngân sách cần căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế để đảm bảo việc huy động của NSNN không gây khó khăn về mặt tài chính cho các hoạt động kinh tế.
Khả năng khai thác và xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên: Khả năng khai thác và xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ và khoáng sản) là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn NSNN. Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú thì việc khai thác và xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại nguồn thu to lớn cho NSNN.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước: Khi các nguồn tài trợ khác cho chi phí hoạt động của Nhà nước không có khả năng tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ đòi hỏi tỷ suất thu của Ngân sách cũng tăng lên.
Tổ chức bộ máy thu nộp: Tổ chức bộ máy thu nộp có ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả hoạt động của bộ máy này. Nếu tổ chức hệ thống cơ quan thuế, hải quan, kho bạc Nhà nước gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống lại thất thu do trốn, lậu thuế thì đây sẽ là yếu tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn thỏa mãn được các nhu cầu chi tiêu của NSNN.
2.3 Chi ngân sách nhà nước
2.3.1 Khái niệm và đặc điểm của chi NSNN
- Khái niệm chi ngân sách nhà nước: Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, Chi ngân sách nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của nhà nước.
-Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước:
+Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ;
+Chi ngân sách nhà nước gắn với quyền lực nhà nước, mang tích chất pháp lý cao;
+Các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô;
+Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu;
+Các khoản chi của ngân sách nhà nước gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương, tín dụng, v.v... (các phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ).
2.3.2 Nội dung chi NSNN
Nội dung của chi ngân sách nhà nước:
* Theo chức năng nhiệm vụ, chi ngân sách nhà nước gồm:
+ Chi tích lũy:Chi cho tăng cường cơ sở vật chất như đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng cơ bản, khấu hao tài sản xã hội
+ Chi tiêu dùng:Không tạo ra sản phẩm vật chất để xã hội sử dụng trong tương lại (chi bảo đảm xã hội), bao gồm:
- Giáo dục;
- Y tế;
- Công tác dân số;
- Khoa học và công nghệ
- Văn hóa;
- Thông tin đại chúng;
- Thể thao;
- Lương hưu và trợ cấp xã hội;
* Các khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế;
- Quản lý hành chính;
- An ninh, quốc phòng;
- Các khoản chi khác;
- Dự trữ tài chính;
- Trả nợ vay nước ngoài, lãi vay nước ngoài.
* Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra:
- Căn cứ vào nội dung chi tiêu
- Căn cứ vào tính chất và phương thức quản lý Ngân sách Nhà nước
- Chi thường xuyên một cách chính đáng
- Chi đầu tư phát triển
- Chi vào hạng mục dự trữ
- Chi trả nợ vay
2.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn chi
Với đặc điểm của chi NSNN thì chi ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau:
- Nhiệm vụ về phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ: Một trong những đặc điểm của chi ngân sách nhà nước là để phục vụ các hoạt động kinh tế, xã hội chung, mục tiêu là tăng trưởng và phát triển của toàn xã hội. Do vậy các khoản chi ngân sách nhà nước sẽ tăng lên khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế cần sự trợ giúp của chính phủ để kích thích sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế.
- Khả năng tích tụ và tích lũy của nền kinh tế: với một quốc gia, nếu khả năng này của nền kinh tế tốt thì không những hạn chế được mức chi của ngân sách, ,mà còn cho thấy sự hoạt động tốt của nền kinh tế, một đồng bỏ ra có hiệu quả cho tăng trưởng và phát triển, không lãng phí.
- Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, hạn hán, động đất, dịch bệnh: Chi ngân sách nhà nước luôn đảm bảo vì lợi ích chung và đảm bảo sự công bằng cho một bộ phận những người có hoàn cảnh đặc biệt. Khi quốc gia gặp thiên tai, thì việc tăng chi tiêu để trợ cấp cho những gia đình gặp khó khăn, khắc phục hậu quả, giữ ổn định kinh tế là điều tất yếu phải làm của chi ngân sách nhà nước. Và do đó, mức chi ngân sách cũng sẽ tăng.
- Hiệu quả chi của bộ máy chi Ngân sách nhà nước: Cũng giống như thu ngân sách nhà nước, bộ máy chi ngân sách nhà nước đạt hiệu quả tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, tham ô trong quá trình chi tiêu thì sẽ tiết kiệm được cho quốc gia một khoản chi lớn, số chi vô ích sẽ giảm đi đáng kể.
2.4. Lý thuyết về thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước.Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.
Thâm hụt ngân sách nhà nước cần phải đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của người dân do thuế là một trong những nguồn bù đắp ngân sách lớn nhất của ngân sách nhà nước mà việc thu thuế cần phải dựa vào mức thu nhập của người dân, hơn nữa nhà nước có thể lựa chọn vay từ dân cư trong nước mà để định mức vay hợp lý thì lại phải dựa trên thu nhập và mức sống của người dân
Giải pháp khắc phục: dưới đây là các biện pháp chính phủ sử dụng để bù đắp bội chi:
Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước;
Vay nợ trong nước và nước ngoài để bù đắp sự thâm hụt;
Tăng phát hành trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc
Phát hành tiền giấy…
THỰC TRẠNG CƠ CẤU NGÂN SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (2011-2016)
Tình hình thu ngân sách từ năm 2011-2016
Cơ cấu thu chi ngân sách đã có những chuyển biến tích cực theo hướng bền vững hơn. Trong thu ngân sách, tỷ trọng thu nội địa đã tăng từ 58% giai đoạn 2006-2010 lên khoảng 68% giai đoạn 2011-2015, đến năm 2015 ước chiếm khoảng 74% tổng thu NSNN. Trong khi đó, sự phụ thuộc vào nguồn thu từ dầu thô, thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần. Trong cơ cấu thu nội địa, nguồn thu từ sản xuất kinh doanh đã trở thành nguồn thu giữ vai trò quan trọng của NSNN. Năm 2016 , ngân sách tăng, bằng 93% dự toán năm.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Thu nội địa
443731
477106
545500
539000
638600
785000
Thu từ dầu thô
11025
140106
99000
85200
93000
54500
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu
155765
107404
166500
154000
175000
172000
Thu viện trợ
12103
10267
5000
4500
4.500
3000
Tổng thu
721804
734883
816000
782700
911100
1014500
BẢNG SỐ LIỆU TỔNG THU NGÂN SÁCH NĂM 2010-2016
- Năm 2011: Tình hình trốn thuế vẫn đang nhiều mặc dù chính phủ đánh giá tổng thu ngân sách vượt 11,3% so với dự toán. Tuy nhiên giám sát,tình trạng gian lận trốn thuế vẫn diễn ra khá phổ biến ,nhất là ở một số thành phố lớn. Vẫn có thể khai thác nguồn thu từ đất đai,kinh doanh bất động sản, từ khai thác tài nguyên khoáng sản. Vì vậy thu ngân sách từ nội địa giảm xuống, còn chiếm 61,47% tổng thu ngân sách giảm so với 2010. Nhưng nhìn chung tổng thu ngân sách tăng cao hơn cũng là một thành công của chính phủ, dễ nhận thấy việc ổn định kinh doanh của thị trường có nhiều khởi sắc so với 2010. Tuy thu ngân sách có tăng nhưng kéo theo đó là chi ngân sách cũng tăng, làm cho chính phủ thâm hụt ngân sách, tăng từ 60405 tỷ đồng lên 65750 tỷ đồng, tăng 8,84% so với 2010.
- Năm 2012: Thu ngân sách năm 2012 chỉ tăng rất nhẹ, 1,81% so với 2011. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm vì trong năm này xảy ra vấn đề chính trị, đó là việc tranh chấp biển Đông của Việt Nam với Trung Quốc làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm xuống 45,02% so với 2011.
- Năm 2013: Tổng thu ngân sách vẫn dựa nhiều trên việc thu từ nội địa và từ hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng thu tăng khá đáng kể so với năm trước.
- Năm 2014: Dự toán của chính phủ trong 2014 là thu ngân sách giảm 4,25%. Tuy nhiên thu tăng so với dự toán của chính phủ.
- Năm 2015: Mặc dù thu ngân sách nhà nước trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, giá dầu thô sụt giảm mạnh nhưng theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến ngày 28/12/2015, thu cân đối NSNN đạt xấp xỉ 957 nghìn tỷ đồng, đạt 105% dự toán, bằng 103,1% số ước thu cả năm đã báo cáo Quốc hội. Trong đó, đáng chý ý nhất là thu nội địa đạt 110,9% dự toán, bằng 103,1% số báo cáo Quốc hội; thu dầu thô đạt 73,1% dự toán, bằng 111,4% số báo cáo Quốc hội; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 98,2% dự toán và số báo cáo Quốc hội.
- Năm 2016: Thu ngân sách đã đạt 100,7% dự toán, riêng ngân sách địa phương vượt 15%, tính đến hết năm vượt khoảng 70.000 tỷ đồng. Tổng thu năm 2016 tăng nhiều so với năm 2015, cho thấy nhiều chuyển biến tốt trong nền kinh tế để chính phủ xây dựng kế hoạch cụ thể cho năm 2017.
Đơn vị: nghìn tỷ
Biểu đồ so sánh dự toán và quyết toán chi ngân sách NN 2010-2014
Tình hình chi ngân sách năm 2011- 2016
Đơn vị: tỷ đồng
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Chi thường xuyên
442100
542000
658900
704400
767000
823995
Chi đầu tư và phát triển
152000
180000
1753000
163000
195000
254950
Chi trả nợ,viện trợ
86000
100000
105000
120000
150000
155100
Khoản chi khác
45500
81100
39100
19300
35100
39155
Tổng chi
725600
903100
978000
1006700
1147100
1273200
-Năm 2011: Các khoản chi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao nhất sau đó là các khoản chi đầu tư và phát triển. Mặc dù , vẫn có thể nhận thấy lượng chi năm 2011 không cao.Tuy nhiên so với dự kiến lại cao hơn rất nhiều.
-Năm 2012: Tổng chi cao hơn rất nhiều so với năm 2011 chi ngân sách năm 2012 tăng 24,24% so với 2011. Các khoản chi ngân sách thì việc chi cho chi thường xuyên tăng đột biến, khoản mục này tăng 29,19% so với 2011. Nguyên nhân là do chính phủ chi nhiều cho quân sự, quốc phòng và các hoạt động bảo vệ chủ quyền trên biển Đông.
-Năm 2013: Dù các khoản chi vẫn tăng nhưng ức tăng không đột ngột cao như năm trước. Chi thường xuyên vẫn tăng cao xong chi đầu tư và phát triển có xu hướng giảm. Tỷ lệ chênh lệch giữa chi dự kiến và quyết toán là không đáng kể.
-Năm 2014: Dự toán của chính phủ trong 2014 là chi ngân sách tăng 5,16% so với cùng kỳ 2013, xong mực chi thực tế lại thấp hơn dự toán. Trong đó ngân sách thi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao, chiếm 71,33% tổng chi ngân sách nhà nước, trong khi các khoản chi cho đầu tư phát triển giảm nhẹ và chi cho trả nợ và viện trợ tăng nhẹ. Điều này cho thấy trong năm 2014, chính phủ ít quan tâm hơn đến việc đầu tư và phát triển mà chú trọng nhiều hơn vào khoản mục chi cho hoạt động xã hội.
-Năm 2015: Tổng chi tăng , nhưng lượng tăng không cao so với năm 2014, trong mức cho phép của chính phủ. Chi quyết toán vẫn cao hơn chi dự toán 10.1%.
-Năm 2016: Nhờ những chính sách hợp lý của chính phủ, năm 2016 không sảy ra tình trạng chi tăng đột biến tuy nhiên vẫn tăng và ở mức cao. Tính đến ngày 15/12, bội chi ngân sách ước tính đã khoảng 190.200 tỷ đồng.
Đơn vị: nghìn tỷ
Biểu đồ so sánh dự toán và quyết toán chi ngân sách NN 2010-2014
Thực trạng cân đối ngân sách ở Việt Nam
Sự chênh lệch thu chi ngân sách của nhà nước
Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước những năm gần đây ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách....
Vay bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc: không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ sử dụng cho mục đích phát triển, phải có kế hoạch thu hồi vốn vay và đảm bảo cân đối ngân sách để chủ động trả nợ khi hết hạn”.
Trạng thát cân đôi ngân sách của nước ta hiện nay:
Năm
Tổng thu cân đối NSNN
Tổng chi cân đối NSNN
Thâm hụt NSNN
Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP
2011
962.982
1.034.244
112.034
4,4%
2012
1.038.451
1.170.924
173.815
5,36%
2013
1.084.064
1.277.710
236.769
6,6%
2014
782.7
1.006.700
224
5,3%
2015
989,69
1.093.700
104.01
5%
2016
1014,200
1273,200
249
4,95
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2010 ước tính bằng 109,3% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 107%; thu từ dầu thô bằng 99,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 123,1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 103,1%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 100,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 101%; thuế thu nhập cá nhân bằng 121,2%; thu phí xăng dầu bằng 101%; thu phí, lệ phí bằng 100,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2010 ước tính bằng 98,4% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 98,4% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 97,9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 99,6%; chi trả nợ và viện trợ bằng 114,1%.
Năm 2011 được xem là năm nhà nước thay đổi công tác điều hành, ngay từ đầu năm Chính phủ đã ban hành và triển khai quyết liệt Nghị quyết 11 nên kết quả thu ngân sách năm 2011 vượt kế hoạch 21,3%. Về chi, theo báo cáo của Chính phủ, tổng số chi 1.034.244 tỷ đồng. Nhờ tăng thu NSNN nên đã giảm bội chi từ 5,3% GDP theo Nghị quyết của Quốc hội xuống còn 4,4%, đây là một động thái tích cực. Tuy nhiên, mặc dù giảm bội chi song các khoản chi ứng trước, nợ tạm ứng, thiếu hụt nguồn hoàn thuế đã làm cho kết quả giảm bội chi không có nhiều ý nghĩa về tài khoá.
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 theo báo cáo quyết toán là 173.815 tỷ đồng (5,36% GDP). Theo đó, tổng thu NSNN năm 2012 là 1.038.451 tỷ đồng, tăng 1,9% so với dự toán, Tổng chi NSNN năm 2012 là 1.170.924 tỷ đồng, tăng 8,3% so với dự toán. Chi thường xuyên vẫn còn lãng phí, chi sai chế độ quy định, không đúng mục đích đang có dấu hiệu gia tăng tại các địa phương.
Nguyên nhân là do thâm hụt ngân sách và nợ công tăng ở nhiều nước EU, Mỹ, Nhật Bản, đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự được cải thiện nhiều sau khủng hoảng. Đồng thời những bất ổn về chính trị xung đột khu vực, tranh chấp lãnh thổ sẽ gây nhiều khó khăn cho sự phát triển. Các chính sách và biện pháp bảo hộ mậu dịch hàng rào thuế quan và phi thuế quan gia tăng.
Ở trong nước, bên cạnh các giải pháp, chính sách về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đã bước đầu phát huy hiệu quả. Bội chi NSNN giảm dần, xuất khẩu tăng nhanh cũng góp phần làm giảm nhập siêu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối, tuy nhiên, kinh tế vĩ mô ở nước ta chưa thực sự ổn định; lạm phát và lãi suất đang còn ở mức cao, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống nhân dân; Hoạt động đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp nhiều khó khăn; Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản hoạt động trì trệ. Thiên tai, bão lũ, dịch bệnh vẫn là những yếu tố phức tạp, khó lường.
Mức bội chi ngân sách năm 2013 là 236.769 tỷ đồng, bằng 6,6% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.084.064 tỷ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2012 sang năm 2013, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2012, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương và thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 1.277.710 tỷ đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2013 sang năm 2014. Đây được gọi là sự vỡ kế hoạch. Nguyên nhân là do thế giới có sự suy giảm nguồn vốn FDI; suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn diễn ra; thị trường tài chính vẫn tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế đang phát triển do việc các nền kinh tế phát triển sẽ rút bỏ dần các biện pháp nới lỏng định lượng. Ở trong nước, bên cạnh việc cơ bản đã kiềm chế được lạm phát; các chính sách hỗ trợ sản xuất – kinh doanh đã bắt đầu phát huy tác dụng; lãi suất hạ nhiệt thúc đẩy hoạt động tín dụng cho doanh nghiệp và dân cư; sản xuất công nghiệp đã dần phục hồi thì chính sự thiếu ổn định về cán cân vĩ mô, sức cầu nền kinh tế còn yếu đã gây ra tình trạng bội chi NSNN. Thêm vào đó là tình trạng tồn kho, đặc biệt là tồn kho bất động sản và vật liệu xây dựng lớn.Sức cạnh trang hàng hóa ngày càng khắc nghiệt và chịu sự tác động của các yêu tố mang tính toàn cầu như suy giảm luồn vốn FDI, suy thoái kinh tế toàn cầu và khủng hoảng tài chính.
Mặt khác do dự toán xây dựng cao so với khả năng thực thiện đã gây ra tình trạng bội chi vỡ kế hoạch vào năm 2013; Ngoài ra, năm 2013 chính phủ thực hiện các chính sách miễn giảm thuế để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nên cũng góp phần làm giảm số thu NSNN. Thêm vào đó, mức tăng trưởng kinh tế tuy cao hơn hẳn năm 2012 nhưng vẫn chưa đạt kế hoạch; việc hoàn thiện thể chế chính sách về thâm hụt NSNN còn có chỗ chưa chặt chẽ.Việc quản lý điều hành cũng có lúc chưa hiệu quả nên một số đối tượng lợi dụng, gian lận và trốn lậu thuế.
Năm 2014 dự toán bội chi ngân sách do Bộ Tài chính đưa ra là 224.000 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP. Tổng thu cân đối ngân sách năm 2014 là 782.700 tỷ đồng. Trong đó, thu nội địa chiếm 539.000 tỷ, từ dầu thô 85.200 tỷ, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu 154.000 tỷ và thu viện trợ là 4.500 tỷ. Bên cạnh đó, mức chi dự toán được đưa ra là 1,0067 triệu tỷ đồng, bao gồm: chi đầu tư phát triển là 163.000 tỷ, chi trả nợ và viên trợ là 120.000 tỷ, chi phát triển sự nghiệp là 704.400 tỷ. Dự toán bội chi ước đạt 5.3%GDP.
Nguyên nhân một phần do kinh tế toàn cầu đã bước vào giai đoạn ổn định hơn dù tốc độ tăng trưởng vẫn còn thấp. Thị trường tài chính bớt rủi ro hơn mặc dù vẫn tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế đang phát triển do việc các nền kinh tế phát triển sẽ rút bỏ dần các biện pháp nới lỏng định lượng; Tình hình lạm phát nhìn chung vẫn được kiểm soát do giá cả hàng hóa quốc tế đang có xu hướng giảm. Đối với trong nước: Bên cạnh sự phục hồi của nền kinh tế; các chính sẽ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh doanh thúc đẩy tổng cầu trong năm 2013 đã phát huy tác dụng và tiếp tục có ảnh hưởng tích cực trong năm 2014; dòng vốn được khơi thông sẽ đẩy nhanh hơn tốc độ phục hồi sản xuất; Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn với việc tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do: EPA, TPP, EU thì sự tăng trưởng kinh tế có nhiều khả năng sẽ phục hồi nhưng chưa vững chắc; sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong bố cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cạnh tranh ngày càng gay gắt; Năm 2014, cũng là năm tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao do tác động độ trễ của những chính sách tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh năm 2013, dòng vốn được lưu thông trở lại.
Năm 2015, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) dự tính sẽ vào khoảng 921 nghìn tỷ đồng, chi NSNN khoảng 1,147 triệu tỷ đồng và theo đó bội chi NSNN vào khoảng 226 nghìn tỷ đồng, tương đương 5% GDP.
Có thể nói, theo giới hạn mà Quốc hội đề ra, bội chi NSNN tối đa được phép là 5% GDP/năm. Nhưng trên thực tế rất khó để thực hiện đúng được quy định đó.Vấn đề thực sự là với nền tài khóa quốc gia như hiện nay, nếu bội chi ngân sách cứ luôn vượt quá 5% GDP trong một thời gian dài sẽ nguy hiểm. Điều này có khiến cho thị trường hiểu rằng đang không có sự thống nhất giữa chủ trương và thực thi chính sách của Chính phủ, làm giảm niềm tin của thị trường, gây sức ép rất lớn lên việc điều hành kinh tế vĩ mô.
Năm 2016: Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2016 ước tính đạt 943,3 nghìn tỷ đồng, bằng 93% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 744,9 nghìn tỷ đồng, bằng 94,9%; thu từ dầu thô đạt 37,7 nghìn tỷ đồng, bằng 69,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 156,2 nghìn tỷ đồng, bằng 90,8%.Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2016 ước tính đạt 1.135,5 nghìn tỷ đồng, bằng 89,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 190,5 nghìn tỷ đồng, bằng 74,7%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 786 nghìn tỷ đồng, bằng 95,4%; chi trả nợ và viện trợ đạt 150,3 nghìn tỷ đồng, bằng 96,9%.
Nguyên nhân thâm hụt ngân sách nặng nề
Thâm hụt ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng khác nhau đến sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước gồm các nguyên nhân chính sau:
Thất thu thuế nhà nước:
-Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, lợi nhuận từ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ… Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước…
- Điển hình, trong năm 2008 lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi của ngân sách nhà nước 2.500- 3000 tỉ đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập lậu còn làm chảy máu ngoại tệ của đất nước khoảng 200 triệu USD/năm, làm gia tăng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế. Hay như vụ chuyển giá của các tập đoàn nước ngoài, liên tục khai báo lỗ giả trong thời gian qua trên các phương tiện truy ền thông có nhắc đến, riêng những vụ này nhà nước ta đã thất thu rất nhiều thuế.
- Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên,việc miễn thuế, giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước.
Đầu tư công kém hiệu quả:
-Trong 2 năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài. Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước và kìm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
-Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng.
Nhà nước huy động vốn để kích cầu:
-Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8- 12%GDP.
Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên:
- Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách, áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương).
- Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách.
-Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
Quy mô chi tiêu của Chính phủ quá lớn:
-Tăng chi tiêu của Chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính.
-Lý thuyết kinh tế không chỉ ra một cách rõ ràng về hướng tác động chi tiêu của chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu của Chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt ngân sách nhà nước và cuối cùng là gây ra lạm phát.
Bên cạnh đó, sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế:
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
Lạm phát:
Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo. Khi đó trong nước sẽ hạn chế tiêu dùng, đầu tư, tăng cường tiết kiệm, sản lượng trong nước giảm đáng kể, nên kinh tế kém tăng trưởng, các doanh nghiệp sẽ hạn chế việc sản xuất làm nhu cầu nhân lực giảm, thất nghiệp gia tăng. Đây chính là một hệ quả điển hình trong việc tăng thâm hụt NSNN.
Một vấn đề đi kèm khác trong việc tăng thâm hụt NSNN là việc tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ tăng, chứng tỏ tiền trong nước đang bị mất giá. Việc này sẽ làm giảm đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và các đầu tư có yếu tố nước ngoài.
Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế, gây nguy cơ lạm phát và vỡ nợ của quốc gia.
GỈAI PHÁP KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Phát hành tiền
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủcó thểtài trợsốthâm hụt của mình bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơsở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh tếđất nước suy thoái.Khi sản lượng thực tếthấp hơn mức sản lượng tiềm năng thì việc tài trợ số thâm hụt của chính phủbằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực hiện những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tếthông qua việc đưa nền kinh tếtiến đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm phát.Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tếquá mạnh (sản lượng thực tếcao hơn mức sản lượng tiềm năng ) thì chính phủkhông nên tài trợsốthâm hụt của mình bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơsở,vì nhưvậy sẽcàng kích tổng cầu lên cao và đẩy sản lượng thực tếvượt xa mức sản lượng tiềm năng,hậu quảlà làm tăng lạm phát
Ưu điểm: Giải quyết nhanh chóng, không phải trả lãi, không gánh thêm nợ nước ngoài.
Nhược điểm: Xu hướng sẽ tạo ra một tổng cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tang.
Vay nợ
Trong nước: Vay nợ trong nước được Chính phủthực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉghi nhận nợcủa nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành đểvay các dân cư, các tổchức kinh tế-xã hội và các ngân hàng.ỞViệt Nam, Chính phủthường uỷnhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình
Ưu điểm: cho phép chính phủ duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không cần tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế
Tập trung được khoản tiền tạm thời nhàn dỗi trong dân cư, tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài để triển khai
Nhược điểm: CHứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh doanhcủa nền kinh tế do giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép tang lãi suất trong nước
Tuy không gây lạm phát trước mắt nhưng có thể gây áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Gánh nặng trả lãi của Chính phủ trong tương lai.
Nước ngoài : Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế...Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng.
Ưu điểm: Có thể bù đắp được các khoản bội chi mà không gây lạm phát cho nền kinh tế
+ Nguón vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước góp phần thúc đẩy phát triẻn kinh tế xã hội
Nhược điểm:
+ Gánh nặng nợ nần nghĩ vụ trả nợ tang lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ
+ Nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài
Bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng biện pháp tăng thuế
Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu ngân sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn mức tối ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách chỉ giảm đi. Hàm ý của đường cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì giảm thuế suất sẽ có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuyến khích khu vực tư nhân hăng hái đầu tư.
Tăng thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế, phụ thuộc vào hiệu quả làm việc của hệ thống thu, phụ thuộc vào từng sắc thuế. Khi còn ở trong vùng có thể chịu đựng được thì tăng thuế thu nhập sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước đồng thời còn kích thích các đối tượng nộp thuế, phát triển mở mang các hoạt động kinh tế, tăng khả năng sinh lời dạng có một phần nộp ngân sách Nhà nước, còn lại phàn thặng dư cho mình
Trong thời kì kinh tế suy thoái , hoạt động kinh tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không khả thi mà còn cản trở hoạt động kinh doanh, trực tiếp làm tang số lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách.
Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Xét theo góc độ kinh tế học,cắt giảm chi tiêu với hy vọng giảm tổng chi nhằm giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước là một biện pháp ‘tiêu cực’.Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên,bao gồm cả chi lương ,chi mua sắm trang thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính,thậm chí sẽ trì hoãn hoặc cắt giảm đầu tư phát triển.Đương nhiên, ở đây cần phân biệt tính hiệu quả, tiết kiệm trong mỗi khoản chi ngân sách với khái niệm cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước,cần phân biệt khái niệm lãng phí và phạm trù kích cầu. Nếu như công việc trung gian gián tiếp kích thích hoạt động kinh tế thì đó không phải là lãng phí mà là những việc cần làm ngay giúp cho nền kinh tếphục hồi. Dù trước mắt ,ngân sách có thiếu hụt cũng phải tạo nguồn để chi cho khoản đó nhằm chấn hưng nền kinh tế và nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai.Chẳng hạn ở Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của ta, cần tăng khả năng lưu thông, muốn tăng khả năng lưu thông cần giảm chi phí vận chuyển,muốn giảm chi phí vận chuyển nhà nước cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, cải tạo, hoàn thiện và xây mới các tuyến đường.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí và điền hành Ngân sách Nhà nước
Các giải pháp khác
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả,ổn định chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển ,tác động vào đời sống kinh tế xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội ,nhất là mối quan hệ giữa tang trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tang trưởng kinh tế với giữ gìn môi trường... Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tang cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý ngân sách Nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
KẾT LUẬN
Với ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc cân đối thu chi ngân sách nhà nước, thu chi ngân sách không chỉ là mối quan tâm của các nhà quản lý mà là mối quan tâm của nhiều chủ thể kinh tế khác như các nhà đầu tư, đối thủ cạnh tranh. Việc đầu tiên khi muốn quản lý thu chi của bất kì doanh nghiêp nào cũng là xem xét , đánh giá hiệu quả, khả năng tiềm tàng của nó. Vậy làm thế nào để nâng cao khả năng quản lý thu chi của nhà nước? Đây là một câu hỏi thường trực của các nhà quản lý tài chính và vấn đề đặt ta tìm hướng giải quyết. Một trong những công cụ hữu hiệu trong việc quản lý ngân sách nhà nước là phân tích tình hình quản lý thu ci của ngân sách Nhà nước.
Việc đề ra giải pháp cân đối thu chi là hết sức quan trọng trong tình hình ngân sách bij thâm hụt nặng nề như hiện nay. Đây là một đề tài lớn , cần nghiên cứu cụ thể tỉ mỉ, xem xét nhiều khía cạnh của vấn đề để đưa ra hướng giải quyết tốt nhất. tuy nhiên , trong khuôn khổ của một bài tiểu luân, nhóm đưa ra vấn đề và giải pháp tối ưu nhất có thể về đề tài. Vì vốn hiểu biết chưa sâu và nguồn tài liệu còn hạn hẹp, chắc hẳn còn nhiều viến đề nhóm chưa giải quyết được, rất mong sự đóng góp ý kiến của mọi người . nhóm cũng muốn cảm ơn sự chỉ dạy của thầy Vũ Ngọc Tú đã giúp nhóm hoàn thành bài luận này.
MỤC LỤC
Mở đầu ……………………………………………………………………….1
Lý do chọn đề tàiMục tiêu
Phạm vi nghiên cứu
Cơ sở lý thuyết về ngân sách và thâm hụt ngân sách nhà nước…………..2
Ngân sách nhà nước……………………………………………………….2
Khái niệm và hệ thống NSNN
Đặc điểm của NSNN
Vai trò của NSNN
Thu NSNN…………………………………………………………………4
Khái niệm và đặc điểm của thu NSNN
Nội dung và phân loại của thu NSNN
Bồi dưỡng nguồn thu
Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN
Chi ngân sách nhà nước……………………………………………….…...6
Khái niệm và đặc điểm của chi NSNN
Nội dung chi NSNN
Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn chi
. Lý thuyết về thâm hụt ngân sách nhà nước…………………………….....9
Thực trạng cơ cấu ngân sách của nhà nước ở Việt Nam giai đoạn (2010-2016)………………………………………………………………………….10
Tình hình thu NSNN…………………………………………………...…10
Tình hình chi NSNN………………………………………………….…..13
Thực trạng cân đối ngân sách của Việt Nam……………………………..14
3.1.1. Sự chênh lêch thu chi ngân sách nhà nước
3.1.2. Nguyên nhân của thâm hụt ngân sách nhà nước
IV. Giải pháp khắc phục vấn đề thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam……………………………………………………………………….21
Kết luận………………………………………………………………………24
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình kinh tế vĩ mô – nhà xuất bản Giáo dục
- Tài chính – tình hình thu ngân sách nhà nước - Tapchitaichinh.vn
- Cổng thông tin điện tử- số liệu ngân sách nhà nước- www2.chinhphu.vn
- Báo Hài Quan – nguyên nhân thâm hụt ngân sách nhà nước – www.baomoi.com
- Thư viện pháp luật- tình hình thu chi ngân sách nhà nước – thuvienphapluat.vn
- Tổng cục thống kê – số liệu ngân sách nhà nước – gos.gov.vn
- Dân kinh tế -thực trạng thu chi ngân sách nhà nước những năm gần đây - www.dankinhte.vn
- wikipedia – lý thuyết.
Mở đầu
Cơ sở lý thuyết về ngân sách và thâm hụt ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước
Khái niệm và hệ thống NSNN
Đặc điểm của NSNN
Vai trò của NSNN
Thu NSNN
Khái niệm và đặc điểm của thu NSNN
Nội dung và phân loại của thu NSNN
Bồi dưỡng nguồn thu
Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN
Chi ngân sách nhà nước
Khái niệm và đặc điểm của chi NSNN
Nội dung chi NSNN
Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn chi
. Lý thuyết về thâm hụt ngân sách nhà nước
Thực trạng cơ cấu ngân sách của nhà nước ở Việt Nam giai đoạn (2011-2016)
Tình hình thu NSNN
Tình hình chi NSNN
Thực trạng cân đối ngân sách của Việt Nam
3.1.1. Sự chênh lêch thu chi ngân sách nhà nước
3.1.2. Nguyên nhân của thâm hụt ngân sách nhà nước
IV. Giải pháp khắc phục vấn đề thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam
Kết luận
____ word+Slide + Mở đầu + Kết luận : Nguyễn Thị Yến
____ Thuyết trình : Phạm Nguyệt Tú
KINH TẾ VĨ MÔ
[NHÓM 13]