Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dassault Mirage IIIV”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: sửa lỗi chính tả
n {{tham khảo|2}} → {{tham khảo|30em}}
 
(Không hiển thị 22 phiên bản của 13 người dùng ở giữa)
Dòng 2: Dòng 2:
|tiêu bản phụ=
|tiêu bản phụ=
|tên=Mirage IIIV
|tên=Mirage IIIV
|hình=Hình:Mirage III V Le Bourget FRA 001.JPG
|hình=Mirage III V Le Bourget FRA 001.JPG
|chú thích=
|chú thích=
|kiểu=[[Máy bay tiêm kích]] [[VTOL]]
|kiểu=[[Máy bay tiêm kích]] [[VTOL]]
|hãng sản xuất= [[Dassault Aviation]]
|hãng sản xuất= [[Dassault Aviation]]
|hãng thiết kế=
|hãng thiết kế=
|chuyến bay đầu tiên= [[Tháng 2]]-[[Hàng không năm 1965|1965]]
|chuyến bay đầu tiên= [[Tháng hai|Tháng 2]]-[[Hàng không năm 1965|1965]]
|được giới thiệu=
|được giới thiệu=
|được nghỉ hưu=
|được nghỉ hưu=
|tình trạng=
|tình trạng=
|hãng sử dụng chính= {{Cờ|Pháp}} [[Không quân Pháp]]
|hãng sử dụng chính= {{Flagicon|Pháp}} [[Không quân Pháp]]
|được chế tạo=[[1965]]-[[1966]]
|được chế tạo=[[1965]]-[[1966]]
|số lượng được sản xuất=2
|số lượng được sản xuất=2
Dòng 20: Dòng 20:
}}
}}
'''Dassault Mirage IIIV''' (3-V) là một loại [[máy bay tiêm kích]] cất hạ cánh thẳng đứng ([[VTOL]]) của [[Pháp]] do hãng [[Dassault Aviation]] nghiên cứu chế tạo. Không giống như mẫu tiền nhiệm là [[Dassault Mirage III]], mẫu IIIV nổi bật với 8 động cơ phản lực nâng phụ cỡ nhỏ đặt cạnh động cơ chính. Thiết kế này nhằm đáp ứng tiêu chí của [[NATO]] về một máy bay tiêm kích tấn công VTOL trong thập niên 1960.
'''Dassault Mirage IIIV''' (3-V) là một loại [[máy bay tiêm kích]] cất hạ cánh thẳng đứng ([[VTOL]]) của [[Pháp]] do hãng [[Dassault Aviation]] nghiên cứu chế tạo. Không giống như mẫu tiền nhiệm là [[Dassault Mirage III]], mẫu IIIV nổi bật với 8 động cơ phản lực nâng phụ cỡ nhỏ đặt cạnh động cơ chính. Thiết kế này nhằm đáp ứng tiêu chí của [[NATO]] về một máy bay tiêm kích tấn công VTOL trong thập niên 1960.


==Balzac V==
==Balzac V==
Khi động cơ nâng Rolls-Royce RB.162 theo danh nghĩa được sử dụng trên Mirage IIIV không thể kịp trang bị trước năm [[1963]], Dassault đã sửa đổi nguyên mẫu Mirage III đầu tiên để phục vụ như một mẫu thử nghiệm VTOL tạm thời. 8 động cơ nâng [[Rolls-Royce RB.108]] đã được lắp đặt, mỗi chiếc có lực đẩy cất cánh cực đại trung bình đạt 9.83 kN (2.210 lbf). Động cơ đẩy [[SNECMA Atar]] G.2 của Mirage III đã bị thay thế bằng động cơ đốt lần hai [[Bristol-Siddeley Orpheus|Bristol Orpheus]] BOr 3 có lực đẩy 21.57 kN (4.850 lbf). Các động cơ nâng lập thành nhóm nối tiếp nhau cứ hai chiếc một xung quanh trọng tâm của máy bay trên mọi cạnh khe hút khí của động cơ đẩy, với mỗi cặp trong một hàng phân chia bởi các bánh xe của bộ phận hạ cánh chính.
Khi động cơ nâng Rolls-Royce RB.162 theo danh nghĩa được sử dụng trên Mirage IIIV không thể kịp trang bị trước năm [[1963]], Dassault đã sửa đổi nguyên mẫu Mirage III đầu tiên để phục vụ như một mẫu thử nghiệm VTOL tạm thời. 8 động cơ nâng [[Rolls-Royce RB.108]] đã được lắp đặt, mỗi chiếc có lực đẩy cất cánh cực đại trung bình đạt 9.83 kN (2.210 lbf). Động cơ đẩy [[SNECMA Atar]] G.2 của Mirage III đã bị thay thế bằng động cơ đốt lần hai [[Bristol-Siddeley Orpheus|Bristol Orpheus]] BOr 3 có lực đẩy 21.57 kN (4.850 lbf). Các động cơ nâng lập thành nhóm nối tiếp nhau cứ hai chiếc một xung quanh trọng tâm của máy bay trên mọi cạnh khe hút khí của động cơ đẩy, với mỗi cặp trong một hàng phân chia bởi các bánh xe của bộ phận hạ cánh chính.
[[Hình:Mirage III V Le Bourget FRA 002.JPG|nhỏ|200px|Bụng của IIIV]]
[[Tập tin:Mirage III V Le Bourget FRA 002.JPG|nhỏ|200px|Bụng của IIIV]]
Balzac bắt đầu bay lơ lửng vào ngày [[12 tháng 10]]-[[1962]], và chuyên bay tự do của nó diễn ra 6 ngày sau đó, hai tháng trước kế hoạch. Chuyến bay chuyển tiếp từ cất cánh thẳng đứng sang bay ngang đầu tiên diễn ra vào chuyến bay thứ 17 của nó ngày [[18 tháng 3]]-[[1963]].
Balzac bắt đầu bay lơ lửng vào ngày [[12 tháng 10]]-[[1962]], và chuyên bay tự do của nó diễn ra 6 ngày sau đó, hai tháng trước kế hoạch. Chuyến bay chuyển tiếp từ cất cánh thẳng đứng sang bay ngang đầu tiên diễn ra vào chuyến bay thứ 17 của nó ngày [[18 tháng 3]]-[[1963]].


Máy bay đã bị rơi vào ngày [[10 tháng 1]]-[[1964]], trong chuyến bay thứ 125 của nó, khi nó đang bay lơ lửng ở độ cao thấp. Trong thời gian hạ thấp thẳng đứng, máy bay bị mất kiểm soát vì cánh bị dao động, cánh trái máy bay dần dần hạ xuống đất tạo góc lớn, khiến máy bay lăn tròn vì động cơ nâng vẫn tiếp tục hoạt động. Tai nạn này được quy do mất điều khiển do những giới hạn bộ phận thăng bằng của "ống nâng tâng bốc" của hệ thống tự động ổn định 3 trục đã vượt quá khi cuộn tròn. Mặc dù khung máy bay bị hư hại tương đối nhẹ, phi công thử nghiệm của ''Centre D'Essai en Vol'' là Jaques Pinier không thể phóng khỏi máy bay và đã thiệt mạng trong tai nạn.
Máy bay đã bị rơi vào ngày [[10 tháng 1]]-[[1964]], trong chuyến bay thứ 125 của nó, khi nó đang bay lơ lửng ở độ cao thấp. Trong thời gian hạ thấp thẳng đứng, máy bay bị mất kiểm soát vì cánh bị dao động, cánh trái máy bay dần dần hạ xuống đất tạo góc lớn, khiến máy bay lăn tròn vì động cơ nâng vẫn tiếp tục hoạt động. Tai nạn này được quy do mất điều khiển do những giới hạn bộ phận thăng bằng của "ống nâng tâng bốc" của hệ thống tự động ổn định 3 trục đã vượt quá khi cuộn tròn. Mặc dù khung máy bay bị hư hại tương đối nhẹ, phi công thử nghiệm của ''Centre D'Essai en Vol'' là Jaques Pinier không thể phóng khỏi máy bay và đã thiệt mạng trong tai nạn.


Máy bay được chế tạo lại, và các chuyến bay thử nghiệm tiếp tục vào [[2 tháng 2]]-[[1965]]. Vào ngày [[8 tháng 9]]-[[1965]], máy bay lại gặp phải một sự cố khác, một lần nữa trong khi đang trôi lơ lửng ở độ cao thấp. Máy bay đang được đánh giá bởi thiếu tá P E Neale thuộc [[Không quân Mỹ]], đây là một phần trong sự trao đổi thông tin Pháp-Mỹ thuộc chương trình VTOL. Thiếu tá Neale đã không thành công khi phóng ra khỏi máy bay. Những kết quả tìm kiếm nguyên nhân gây tai nhạn không bao giờ được công bố. Người ta cho rằng việc điều khiển thủy lực khó khăn với việc sử dụng quá mưc động cơ nâng đã khiến thiếu hụt nhiên liệu và làm tất cả động cơ bị tắt. Một lần nữa, thiệt hại nhỏ nên máy bay có thể sửa được, nhưng trong thời gian này, máy bay đã không được chế tạo lại.
Máy bay được chế tạo lại, và các chuyến bay thử nghiệm tiếp tục vào [[2 tháng 2]]-[[1965]]. Vào ngày [[8 tháng 9]]-[[1965]], máy bay lại gặp phải một sự cố khác, một lần nữa trong khi đang trôi lơ lửng ở độ cao thấp. Máy bay đang được đánh giá bởi thiếu tá P E Neale thuộc [[Không quân Hoa Kỳ|Không quân Mỹ]], đây là một phần trong sự trao đổi thông tin Pháp-Mỹ thuộc chương trình VTOL. Thiếu tá Neale đã không thành công khi phóng ra khỏi máy bay. Những kết quả tìm kiếm nguyên nhân gây tai nhạn không bao giờ được công bố. Người ta cho rằng việc điều khiển thủy lực khó khăn với việc sử dụng quá mưc động cơ nâng đã khiến thiếu hụt nhiên liệu và làm tất cả động cơ bị tắt. Một lần nữa, thiệt hại nhỏ nên máy bay có thể sửa được, nhưng trong thời gian này, máy bay đã không được chế tạo lại.


Balzac V có số seri là 001, nhưng nó lại trùng với số điện thoại của một hãng quảng cáo phim nổi tiếng ở Paris (BALZAC 001) (Publicité Jean Mineur).<ref>{{cite journal | last = Fricker | first = John | title = Mirage might have beens 2: Balzac - Dassault's first VTOL variant | journal = Air International | volume = 45 | issue = 5 | pages = 268–274 | date = November 1993}}</ref>
Balzac V có số seri là 001, nhưng nó lại trùng với số điện thoại của một hãng quảng cáo phim nổi tiếng ở Paris (BALZAC 001) (Publicité Jean Mineur).<ref>{{chú thích tạp chí | last = Fricker | first = John | title = Mirage might have beens 2: Balzac - Dassault's first VTOL variant | journal = Air International | volume = 45 | issue = 5 | pages = 268–274 | date = tháng 11 năm 1993}}</ref>


==Cuộc cạnh tranh trong NATO==
==Cuộc cạnh tranh trong NATO==
4 thiết kế được đệ trình lên [[NATO]] tháng 1-[[1962]], gồm Mirage IIIV, [[Fokker-Republic D.24]] ''Alliance'', [[BAC 584]] và [[Hawker P.1154]], những mẫu máy bay này tham gia một cuộc cạnh tranh AC/169 nhằm đáp ứng các chi tiết về một máy bay tiêm kích tấn công siêu âm V/STOL theo chương trình NATO Basic Military Requirement 3. Vào tháng 5-[[1962]], các phán quyết đã nghiêng về P.1154, do có kỹ thuật cao cấp hơn, nhưng khi xem xét tài chính và những cơ họi chia sẻ công việc Mirage IIIV lại chiếm ưu thế. NATO không phải cấp kinh phí để phát triển đầy đủ mẫu chiến thắng, các quốc gia thành viên riêng lẻ sẽ phải tự bỏ kinh phí.
4 thiết kế được đệ trình lên [[NATO]] tháng 1-[[1962]], gồm Mirage IIIV, [[Fokker-Republic D.24]] ''Alliance'', [[BAC 584]] và [[Hawker Siddeley P.1154|Hawker P.1154]], những mẫu máy bay này tham gia một cuộc cạnh tranh AC/169 nhằm đáp ứng các chi tiết về một máy bay tiêm kích tấn công siêu âm V/STOL theo chương trình NATO Basic Military Requirement 3. Vào tháng 5-[[1962]], các phán quyết đã nghiêng về P.1154, do có kỹ thuật cao cấp hơn, nhưng khi xem xét tài chính và những cơ hội chia sẻ công việc Mirage IIIV lại chiếm ưu thế. NATO không phải cấp kinh phí để phát triển đầy đủ mẫu chiến thắng, các quốc gia thành viên riêng lẻ sẽ phải tự bỏ kinh phí.


==Mirage==
==Mirage==
[[Hình:Mirage III V Le Bourget FRA 003.JPG|nhỏ|200px|Mirage IIIV, nắp động cơ nâng trên lưng]]
[[Tập tin:Mirage III V Le Bourget FRA 003.JPG|nhỏ|200px|Mirage IIIV, nắp động cơ nâng trên lưng]]
Trong khi chờ đợi, Balzac đã dẫn tới Mirage IIIV hiện nay lớn hơn 2 lần. Hai nguyên mẫu đã được chế tạo. Chiếc Mirage IIIV đầu tiên thực hiện chuyến bay lơ lửng thử nghiệm đầu tiên vào tháng 2-[[1965]]. IIIV có cách bố trí chung của những [[máy bay tiêm kích]] Mirage trước đó, nhưng nó dài hơn và có cánh lớn hơn, giống như Balzac có 9 động cơ: một động cơ phản lực cánh quạt đẩy [[Pratt & Whitney]] [[Pratt & Whitney JTF10|JTF10]] do [[SNECMA]] sửa đổi, có tên gọi TF104 lực đẩy 61.8 kN (13.900 lb<sub>f</sub>), và 8 động cơ [[Rolls-Royce RB.162]]-1, lực đẩy mỗi chiếc 15.7 kN (3.525 lbf), đặt thẳng đứng từng đôi một xung quanh trục giữa. TF-104 trước được đánh giá trên một chiếc máy bay thử nghiệm được chế tạo đặc biệt là '''Mirage IIIT''', giống một chiếc Mirage IIIC ngoại trừ thay đổi với động cơ thích hợp.
Trong khi chờ đợi, Balzac đã dẫn tới Mirage IIIV hiện nay lớn hơn 2 lần. Hai nguyên mẫu đã được chế tạo. Chiếc Mirage IIIV đầu tiên thực hiện chuyến bay lơ lửng thử nghiệm đầu tiên vào tháng 2-[[1965]]. IIIV có cách bố trí chung của những [[máy bay tiêm kích]] Mirage trước đó, nhưng nó dài hơn và có cánh lớn hơn, giống như Balzac có 9 động cơ: một động cơ phản lực cánh quạt đẩy [[Pratt & Whitney]] [[Pratt & Whitney JTF10|JTF10]] do [[SNECMA]] sửa đổi, có tên gọi TF104 lực đẩy 61.8&nbsp;kN (13.900&nbsp;lb<sub>f</sub>), và 8 động cơ [[Rolls-Royce RB.162]]-1, lực đẩy mỗi chiếc 15.7&nbsp;kN (3.525&nbsp;lbf), đặt thẳng đứng từng đôi một xung quanh trục giữa. TF-104 trước được đánh giá trên một chiếc máy bay thử nghiệm được chế tạo đặc biệt là '''Mirage IIIT''', giống một chiếc Mirage IIIC ngoại trừ thay đổi với động cơ thích hợp.


Động cơ TF104 nhanh chóng bị thay thế bởi động cơ nâng cấp TF106, có lực đẩy 74.5 kN (16.750 lb<sub>f</sub>), trước khi nguyên mẫu đầu tiên thực hiện chuyển tiếp ban đầu, bắt đầu bay tiến vào tháng 3-[[1966]]. Nó đạt tới vận tốc [[Số Mach|Mach 1.32]] trong các thử nghiệm bay.
Động cơ TF104 nhanh chóng bị thay thế bởi động cơ nâng cấp TF106, có lực đẩy 74.5&nbsp;kN (16.750&nbsp;lb<sub>f</sub>), trước khi nguyên mẫu đầu tiên thực hiện chuyển tiếp ban đầu, bắt đầu bay tiến vào tháng 3-[[1966]]. Nó đạt tới vận tốc [[Số Mach|Mach 1.32]] trong các thử nghiệm bay.


Nguyên mẫu thứ hai có 1 động cơ phản lực cánh quạt đẩy [[Pratt & Whitney TF30|TF30]], lực đẩy 82.4 kN (18.500 lb<sub>f</sub>), bay lần đầu vào [[tháng 6]]-[[1966]]. Vào tháng 9 cùng năm. Nó đạt tới vận tốc Mach 2.04, nhưng đã bị phá hủy trong một tai nạn vào [[28 tháng 11]]-[[1966]]. Mirage IIIV chưa bao giờ có khả năng cất cánh thẳng đứng và thành công khi cố gắng đạt vận tốc siêu âm trong cùng một chuyến bay; thiếu nhiên liệu và động cơ phản lực nâng quá nặng đã ngăn cản nó.
Nguyên mẫu thứ hai có 1 động cơ phản lực cánh quạt đẩy [[Pratt & Whitney TF-30|TF30]], lực đẩy 82.4&nbsp;kN (18.500&nbsp;lb<sub>f</sub>), bay lần đầu vào [[tháng sáu|tháng 6]]-[[1966]]. Vào tháng 9 cùng năm. Nó đạt tới vận tốc Mach 2.04, nhưng đã bị phá hủy trong một tai nạn vào [[28 tháng 11]]-[[1966]]. Mirage IIIV chưa bao giờ có khả năng cất cánh thẳng đứng và thành công khi cố gắng đạt vận tốc siêu âm trong cùng một chuyến bay; thiếu nhiên liệu và động cơ phản lực nâng quá nặng đã ngăn cản nó.


Việc mất nguyên mẫu thứ hai đã khiến chương trình bị hủy bỏ, và thật ra nó đã dập tắt bất kỳ viễn cảnh nào về một máy bay tiêm kích cất cánh thẳng đứng hoạt động với vận tốc Mach 2. [[Hawker P.1154]] của [[Anh]] đã bị hủy bỏ vào năm [[1965]] bởi chính phủ, lúc đó nó vẫn đang ở giai đoạn nguyên mẫu, mẫu máy bay cường kích VTOL [[Hawker P.1127|Hawker-Siddeley Kestrel]] đã bay thử nghiệm trong một cuộc thử nghiệm đánh giá ba bên giữa [[Mỹ]], [[Anh]] và [[Tây Đức]]. Pháp ưu tiên Mirage IIIV.
Việc mất nguyên mẫu thứ hai đã khiến chương trình bị hủy bỏ, và thật ra nó đã dập tắt bất kỳ viễn cảnh nào về một máy bay tiêm kích cất cánh thẳng đứng hoạt động với vận tốc Mach 2. [[Hawker Siddeley P.1154|Hawker P.1154]] của [[Anh]] đã bị hủy bỏ vào năm [[1965]] bởi chính phủ, lúc đó nó vẫn đang ở giai đoạn nguyên mẫu, mẫu máy bay cường kích VTOL [[Hawker Siddeley P.1127|Hawker-Siddeley Kestrel]] đã bay thử nghiệm trong một cuộc thử nghiệm đánh giá ba bên giữa [[Hoa Kỳ|Mỹ]], [[Anh]] và [[Tây Đức]]. Pháp ưu tiên Mirage IIIV.


Một số công việc đối với P.1154 và Kestrel đã góp phần tạo nên mẫu [[máy bay tiêm kích]] cất cánh thẳng đứng [[Hawker Siddeley Harrier|Harrier]]. Mirage IIIV chưa bao giờ trở thành một máy bay chiến đấu thực sự. 8 động cơ nâng là một cơn ác mộng đối với công tác bảo dưỡng, và chắc chắn trọng lượng của chúng đã khiến tầm bay giảm xuống và trọng tải tăng thêm. Rõ ràng chương trình đã thất bại hoàn toàn thậm chí trước cả khi mất nguyên mẫu thứ hai.
Một số công việc đối với P.1154 và Kestrel đã góp phần tạo nên mẫu [[máy bay tiêm kích]] cất cánh thẳng đứng [[Hawker Siddeley Harrier|Harrier]]. Mirage IIIV chưa bao giờ trở thành một máy bay chiến đấu thực sự. 8 động cơ nâng là một cơn ác mộng đối với công tác bảo dưỡng, và chắc chắn trọng lượng của chúng đã khiến tầm bay giảm xuống và trọng tải tăng thêm. Rõ ràng chương trình đã thất bại hoàn toàn thậm chí trước cả khi mất nguyên mẫu thứ hai.
Dòng 53: Dòng 53:
===Đặc điểm riêng===
===Đặc điểm riêng===
*'''Phi đoàn''': 1
*'''Phi đoàn''': 1
*'''Chiều dài''': 16.30 m (53 ft 6 in)
*'''Chiều dài''': 16.30 m (53&nbsp;ft 6 in)
*'''[[Sải cánh]]''': 8.80 m (28 ft 10 in)
*'''[[Sải cánh]]''': 8.80 m (28&nbsp;ft 10 in)
*'''Chiều cao''': n/a
*'''Chiều cao''': n/a
*'''Diện tích cánh''': n/a
*'''Diện tích cánh''': n/a
*'''Trọng lượng rỗng''': 6.750 kg (14.880 lb)
*'''Trọng lượng rỗng''': 6.750&nbsp;kg (14.880&nbsp;lb)
*'''Trọng lượng cất cánh''': n/a
*'''Trọng lượng cất cánh''': n/a
*'''[[Trọng lượng cất cánh tối đa]]''': n/a
*'''[[Trọng lượng cất cánh tối đa]]''': n/a
*'''Động cơ''':
*'''Động cơ''':
**1× Pratt & Whitney TF106, 17.600 lbf (78.5) kN
**1× Pratt & Whitney TF106, 17.600&nbsp;lbf (78.5) kN
**8× RollsRoyce RB162, 4.400 lbf (19.6 kN) mỗi chiếc
**8× RollsRoyce RB162, 4.400&nbsp;lbf (19.6&nbsp;kN) mỗi chiếc
===Hiệu suất bay===
===Hiệu suất bay===
*'''[[Vận tốc V|Vận tốc cực đại]]''': Mach 2
*'''[[Vận tốc V|Vận tốc cực đại]]''': Mach 2
*'''[[Tầm bay]]''': n/a
*'''[[Tầm bay]]''': n/a
*'''[[Trần bay]]''': n/a
*'''[[Trần bay]]''': n/a
Dòng 72: Dòng 72:


==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo|30em}}
{{reflist}}


==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==
Dòng 79: Dòng 79:


==Xem thêm==
==Xem thêm==
{{commonscat|Dassault Mirage IIIV}}
{{thể loại Commons|Dassault Mirage IIIV}}
===Máy bay có cùng sự phát triển===
===Máy bay có cùng sự phát triển===
* [[Dassault Mirage III]]
* [[Dassault Mirage III]]
Dòng 85: Dòng 85:
===Máy bay có tính năng tương đương===
===Máy bay có tính năng tương đương===
* [[Hawker Siddeley Harrier]]
* [[Hawker Siddeley Harrier]]
* [[Hawker P.1154]]
* [[Hawker Siddeley P.1154|Hawker P.1154]]
* [[Rockwell XFV-12]]
* [[Rockwell XFV-12]]
* [[Yakovlev Yak-38]]
* [[Yakovlev Yak-38]]
Dòng 96: Dòng 96:


{{Dassault aircraft}}
{{Dassault aircraft}}
{{aviation lists}}
{{Airlistbox}}

[[Thể loại:Máy bay phản lực]]
[[Thể loại:Máy bay quân sự Pháp thập niên 1960]]
[[Thể loại:Máy bay Dassault|Mirage IIIV]]
[[Thể loại:Máy bay VTOL]]
[[Thể loại:Máy bay chiến đấu]]
[[Thể loại:Máy bay chiến đấu]]
[[Thể loại:Máy bay quân sự]]
[[Thể loại:Máy bay quân sự]]
[[Thể loại:Máy bay chiến đấu thời kỳ chiến tranh lạnh]]
[[Thể loại:Máy bay tiêm kích]]
[[Thể loại:Máy bay nhiều động cơ]]
[[Thể loại:Máy bay phản lực]]
[[Thể loại:Máy bay cánh dưới]]
[[Thể loại:Máy bay cánh tam giác]]
[[Thể loại:Máy bay cánh tam giác]]
[[Thể loại:Máy bay chiến đấu Pháp 1960-1969]]
[[Thể loại:Dự án máy bay hủy bỏ của Pháp]]
[[Thể loại:Máy bay VTOL]]
[[Thể loại:Máy bay một động cơ phản lực]]
[[Thể loại:Dassault|Mirage IIIV]]

[[id:Dassault Mirage IIIV]]
[[de:Dassault Mirage IIIV]]
[[en:Dassault Mirage IIIV]]
[[fr:Dassault Mirage IIIV]]
[[it:Dassault Mirage IIIV]]
[[ja:ミラージュIII V (航空機)]]

Bản mới nhất lúc 11:25, ngày 13 tháng 10 năm 2021

Mirage IIIV
KiểuMáy bay tiêm kích VTOL
Hãng sản xuấtDassault Aviation
Chuyến bay đầu tiênTháng 2-1965
Khách hàng chínhPháp Không quân Pháp
Được chế tạo1965-1966
Số lượng sản xuất2
Được phát triển từDassault Mirage III

Dassault Mirage IIIV (3-V) là một loại máy bay tiêm kích cất hạ cánh thẳng đứng (VTOL) của Pháp do hãng Dassault Aviation nghiên cứu chế tạo. Không giống như mẫu tiền nhiệm là Dassault Mirage III, mẫu IIIV nổi bật với 8 động cơ phản lực nâng phụ cỡ nhỏ đặt cạnh động cơ chính. Thiết kế này nhằm đáp ứng tiêu chí của NATO về một máy bay tiêm kích tấn công VTOL trong thập niên 1960.

Khi động cơ nâng Rolls-Royce RB.162 theo danh nghĩa được sử dụng trên Mirage IIIV không thể kịp trang bị trước năm 1963, Dassault đã sửa đổi nguyên mẫu Mirage III đầu tiên để phục vụ như một mẫu thử nghiệm VTOL tạm thời. 8 động cơ nâng Rolls-Royce RB.108 đã được lắp đặt, mỗi chiếc có lực đẩy cất cánh cực đại trung bình đạt 9.83 kN (2.210 lbf). Động cơ đẩy SNECMA Atar G.2 của Mirage III đã bị thay thế bằng động cơ đốt lần hai Bristol Orpheus BOr 3 có lực đẩy 21.57 kN (4.850 lbf). Các động cơ nâng lập thành nhóm nối tiếp nhau cứ hai chiếc một xung quanh trọng tâm của máy bay trên mọi cạnh khe hút khí của động cơ đẩy, với mỗi cặp trong một hàng phân chia bởi các bánh xe của bộ phận hạ cánh chính.

Bụng của IIIV

Balzac bắt đầu bay lơ lửng vào ngày 12 tháng 10-1962, và chuyên bay tự do của nó diễn ra 6 ngày sau đó, hai tháng trước kế hoạch. Chuyến bay chuyển tiếp từ cất cánh thẳng đứng sang bay ngang đầu tiên diễn ra vào chuyến bay thứ 17 của nó ngày 18 tháng 3-1963.

Máy bay đã bị rơi vào ngày 10 tháng 1-1964, trong chuyến bay thứ 125 của nó, khi nó đang bay lơ lửng ở độ cao thấp. Trong thời gian hạ thấp thẳng đứng, máy bay bị mất kiểm soát vì cánh bị dao động, cánh trái máy bay dần dần hạ xuống đất tạo góc lớn, khiến máy bay lăn tròn vì động cơ nâng vẫn tiếp tục hoạt động. Tai nạn này được quy do mất điều khiển do những giới hạn bộ phận thăng bằng của "ống nâng tâng bốc" của hệ thống tự động ổn định 3 trục đã vượt quá khi cuộn tròn. Mặc dù khung máy bay bị hư hại tương đối nhẹ, phi công thử nghiệm của Centre D'Essai en Vol là Jaques Pinier không thể phóng khỏi máy bay và đã thiệt mạng trong tai nạn.

Máy bay được chế tạo lại, và các chuyến bay thử nghiệm tiếp tục vào 2 tháng 2-1965. Vào ngày 8 tháng 9-1965, máy bay lại gặp phải một sự cố khác, một lần nữa trong khi đang trôi lơ lửng ở độ cao thấp. Máy bay đang được đánh giá bởi thiếu tá P E Neale thuộc Không quân Mỹ, đây là một phần trong sự trao đổi thông tin Pháp-Mỹ thuộc chương trình VTOL. Thiếu tá Neale đã không thành công khi phóng ra khỏi máy bay. Những kết quả tìm kiếm nguyên nhân gây tai nhạn không bao giờ được công bố. Người ta cho rằng việc điều khiển thủy lực khó khăn với việc sử dụng quá mưc động cơ nâng đã khiến thiếu hụt nhiên liệu và làm tất cả động cơ bị tắt. Một lần nữa, thiệt hại nhỏ nên máy bay có thể sửa được, nhưng trong thời gian này, máy bay đã không được chế tạo lại.

Balzac V có số seri là 001, nhưng nó lại trùng với số điện thoại của một hãng quảng cáo phim nổi tiếng ở Paris (BALZAC 001) (Publicité Jean Mineur).[1]

Cuộc cạnh tranh trong NATO

[sửa | sửa mã nguồn]

4 thiết kế được đệ trình lên NATO tháng 1-1962, gồm Mirage IIIV, Fokker-Republic D.24 Alliance, BAC 584Hawker P.1154, những mẫu máy bay này tham gia một cuộc cạnh tranh AC/169 nhằm đáp ứng các chi tiết về một máy bay tiêm kích tấn công siêu âm V/STOL theo chương trình NATO Basic Military Requirement 3. Vào tháng 5-1962, các phán quyết đã nghiêng về P.1154, do có kỹ thuật cao cấp hơn, nhưng khi xem xét tài chính và những cơ hội chia sẻ công việc Mirage IIIV lại chiếm ưu thế. NATO không phải cấp kinh phí để phát triển đầy đủ mẫu chiến thắng, các quốc gia thành viên riêng lẻ sẽ phải tự bỏ kinh phí.

Mirage IIIV, nắp động cơ nâng trên lưng

Trong khi chờ đợi, Balzac đã dẫn tới Mirage IIIV hiện nay lớn hơn 2 lần. Hai nguyên mẫu đã được chế tạo. Chiếc Mirage IIIV đầu tiên thực hiện chuyến bay lơ lửng thử nghiệm đầu tiên vào tháng 2-1965. IIIV có cách bố trí chung của những máy bay tiêm kích Mirage trước đó, nhưng nó dài hơn và có cánh lớn hơn, giống như Balzac có 9 động cơ: một động cơ phản lực cánh quạt đẩy Pratt & Whitney JTF10 do SNECMA sửa đổi, có tên gọi TF104 lực đẩy 61.8 kN (13.900 lbf), và 8 động cơ Rolls-Royce RB.162-1, lực đẩy mỗi chiếc 15.7 kN (3.525 lbf), đặt thẳng đứng từng đôi một xung quanh trục giữa. TF-104 trước được đánh giá trên một chiếc máy bay thử nghiệm được chế tạo đặc biệt là Mirage IIIT, giống một chiếc Mirage IIIC ngoại trừ thay đổi với động cơ thích hợp.

Động cơ TF104 nhanh chóng bị thay thế bởi động cơ nâng cấp TF106, có lực đẩy 74.5 kN (16.750 lbf), trước khi nguyên mẫu đầu tiên thực hiện chuyển tiếp ban đầu, bắt đầu bay tiến vào tháng 3-1966. Nó đạt tới vận tốc Mach 1.32 trong các thử nghiệm bay.

Nguyên mẫu thứ hai có 1 động cơ phản lực cánh quạt đẩy TF30, lực đẩy 82.4 kN (18.500 lbf), bay lần đầu vào tháng 6-1966. Vào tháng 9 cùng năm. Nó đạt tới vận tốc Mach 2.04, nhưng đã bị phá hủy trong một tai nạn vào 28 tháng 11-1966. Mirage IIIV chưa bao giờ có khả năng cất cánh thẳng đứng và thành công khi cố gắng đạt vận tốc siêu âm trong cùng một chuyến bay; thiếu nhiên liệu và động cơ phản lực nâng quá nặng đã ngăn cản nó.

Việc mất nguyên mẫu thứ hai đã khiến chương trình bị hủy bỏ, và thật ra nó đã dập tắt bất kỳ viễn cảnh nào về một máy bay tiêm kích cất cánh thẳng đứng hoạt động với vận tốc Mach 2. Hawker P.1154 của Anh đã bị hủy bỏ vào năm 1965 bởi chính phủ, lúc đó nó vẫn đang ở giai đoạn nguyên mẫu, mẫu máy bay cường kích VTOL Hawker-Siddeley Kestrel đã bay thử nghiệm trong một cuộc thử nghiệm đánh giá ba bên giữa Mỹ, AnhTây Đức. Pháp ưu tiên Mirage IIIV.

Một số công việc đối với P.1154 và Kestrel đã góp phần tạo nên mẫu máy bay tiêm kích cất cánh thẳng đứng Harrier. Mirage IIIV chưa bao giờ trở thành một máy bay chiến đấu thực sự. 8 động cơ nâng là một cơn ác mộng đối với công tác bảo dưỡng, và chắc chắn trọng lượng của chúng đã khiến tầm bay giảm xuống và trọng tải tăng thêm. Rõ ràng chương trình đã thất bại hoàn toàn thậm chí trước cả khi mất nguyên mẫu thứ hai.

Một phần công nghệ của IIIV đã được sử dụng lại trên Mirage IIIF, sau đó là Mirage F1. Buồng lái và các thiết bị điện tử phụ trở cũng đã được áp dụng trên một số mẫu máy bay của Pháp.

Thông số kỹ thuật (Mirage IIIV)

[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm riêng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phi đoàn: 1
  • Chiều dài: 16.30 m (53 ft 6 in)
  • Sải cánh: 8.80 m (28 ft 10 in)
  • Chiều cao: n/a
  • Diện tích cánh: n/a
  • Trọng lượng rỗng: 6.750 kg (14.880 lb)
  • Trọng lượng cất cánh: n/a
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: n/a
  • Động cơ:
    • 1× Pratt & Whitney TF106, 17.600 lbf (78.5) kN
    • 8× RollsRoyce RB162, 4.400 lbf (19.6 kN) mỗi chiếc

Hiệu suất bay

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Fricker, John (tháng 11 năm 1993). “Mirage might have beens 2: Balzac - Dassault's first VTOL variant”. Air International. 45 (5): 268–274.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Máy bay có cùng sự phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Máy bay có tính năng tương đương

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách

[sửa | sửa mã nguồn]