Kishi Nobusuke

Chính trị gia, quan chức người Nhật Bản, đặc vụ CIA

Kishi Nobusuke (岸 信介, きし のぶすけ, Ngạn Tín Giới) (13 tháng 11 năm 1896 – 7 tháng 8 năm 1987) là một chính trị gia và thủ tướng thứ 55 và 56 của Nhật Bản từ ngày 31 tháng 1 năm 1957 đến ngày 19 tháng 7 năm 1960.

Kishi Nobusuke
岸 信介
Thủ tướng thứ 56 và 57 của Nhật Bản
Nhiệm kỳ
31 tháng 1 năm 1957 – 19 tháng 7 năm 1960
Thiên hoàngChiêu Hoà
Tiền nhiệmTanzan Ishibashi
Kế nhiệmHayato Ikeda
Bộ trưởng Quốc phòng
Nhiệm kỳ
31 tháng 1 năm 1957 – 2 tháng 2 năm 1957
Thủ tướngTanzan Ishibashi
Tiền nhiệmTanzan Ishibashi
Kế nhiệmAkira Kodaki
Thành viên Chúng Nghị viện
Nhiệm kỳ
30 tháng 4 năm 1942 – 7 tháng 10 năm 1979
Khu vực bầu cửYamaguchi 1st
Thông tin cá nhân
Sinh13 tháng 11 năm 1896
Tabuse, Đế quốc Nhật Bản
Mất7 tháng 8 năm 1987 (90 tuổi)
Fukuoka, Nhật Bản
Đảng chính trịĐảng Dân chủ Tự do (1955–1987)
Đảng khác
Phối ngẫuRyoko
Con cái3
Alma materĐại học Tokyo
Chữ ký

Được biết đến với sự cai trị bóc lột của nhà nước bù nhìn Nhật Bản Mãn Châu QuốcĐông Bắc Trung Quốc vào những năm 1930, Kishi được mệnh danh là "Quái vật của thời đại Shōwa" (昭和の妖怪; Shōwa no yōkai).[1] Kishi sau đó phục vụ trong nội các thời chiến của Thủ tướng Hideki Tōjō với tư cách là Bộ trưởng Thương mại và Thứ trưởng Bộ Bom, đạn,[2] và cùng ký tuyên bố chiến tranh chống lại Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.

Sau Thế chiến thứ hai, Kishi bị giam ba năm với tư cách bị tình nghi là tội phạm chiến tranh hạng A. Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ đã không buộc tội, xét xử hay kết án anh ta và cuối cùng thả anh ta ra vì họ coi Kishi là người phù hợp nhất để lãnh đạo một nước Nhật thời hậu chiến theo hướng thân Mỹ. Với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, ông tiếp tục củng cố phe bảo thủ Nhật Bản chống lại các mối đe dọa từ Đảng Xã hội Nhật Bản vào những năm 1950. Kishi có công trong việc hình thành Đảng Dân chủ Tự do (LDP) hùng mạnh thông qua việc sáp nhập các đảng bảo thủ nhỏ hơn vào năm 1955, và do đó được ghi nhận là người đóng vai trò chủ chốt trong việc khởi xướng phong trào "Hệ thống 1955", khoảng thời gian kéo dài mà LDP là đảng chính trị áp đảo ở Nhật Bản.[3][4]

Với tư cách là thủ tướng, việc Kishi xử lý sai bản sửa đổi năm 1960 của Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật đã dẫn đến Các cuộc biểu tình Anpo năm 1960, là những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử hiện đại của Nhật Bản và buộc ông phải từ chức trong sự ô nhục.[5]

Ông có người cháu ngoại là cố thủ tướng Abe Shinzō và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Kishi Nobuo.

Thời trẻ và sự nghiệp

sửa

Kishi sinh ra là Nobusuke Satō ở Tabuse, Tỉnh Yamaguchi, con trai của một nhà sản xuất rượu sake thuộc một gia đình samurai lừng lẫy một thời gần đây đã rơi vào thời kỳ khó khăn.[6] Anh trai của ông, Ichirō Satō, sẽ trở thành Phó Đô đốc trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và em trai ông, Eisaku Satō, sẽ trở thành cũng tiếp tục trở thành thủ tướng.[7] Nobusuke theo học một trường tiểu học và trung học cơ sở ở OKama, sau đó chuyển sang một trường trung học cơ sở khác ở Yamaguchi.[8] Khi sắp tốt nghiệp cấp hai, Nobusuke được anh trai của cha mình, Nobumasa Kishi, nhận nuôi, lấy họ của họ.[7] Gia đình Kishi thiếu người thừa kế là nam giới nên đã nhận nuôi Nobusuke để nối dõi tông đường.[9]

Kishi đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh cực kỳ khó khăn để vào Trường Trung học Đệ nhất ở Tokyo, trường trung học danh tiếng nhất cả nước, và sau đó theo học Đại học Hoàng gia Tokyo (nay là Đại học Tokyo), nơi anh tốt nghiệp. Khoa Luật năm 1920 đứng đầu lớp và có điểm cao nhất trong lịch sử trường đại học.[10][11] Khi còn học đại học, Kishi trở thành học trò của học giả pháp lý cánh hữu Shinkichi Uesugi.[10][12] Bởi vì anh ấy học luật Đức dưới sự hướng dẫn của Uesugi, nên quan điểm của Kishi có xu hướng thiên về chủ nghĩa thống nhất kiểu Đức, so với các cách tiếp cận tiến bộ hơn được một số bạn cùng lớp học luật Anh ưa chuộng. [12] Sau khi tốt nghiệp, Kishi vào Bộ Thương mại và Công nghiệp.[10] Đây là một lựa chọn bất thường, bởi vì vào thời điểm đó, những quan chức có tham vọng xuất sắc nhất thường tìm cách vào Bộ Nội vụ và cuối cùng được bổ nhiệm làm thống đốc tỉnh.[10] Một số cố vấn của Kishi thậm chí còn chỉ trích sự lựa chọn của ông.[10] Tuy nhiên, Kishi không quan tâm đến công việc hành chính và muốn trực tiếp tham gia vào sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.[10]

Vào năm 1926–27, Kishi đi khắp thế giới để nghiên cứu công nghiệp và chính sách công nghiệp ở nhiều quốc gia công nghiệp hóa khác nhau trên thế giới, chẳng hạn như Hoa Kỳ, ĐứcLiên Xô.[13] Ngoài Kế hoạch 5 năm của Liên Xô khiến Kishi bị ám ảnh về kế hoạch kinh tế, Kishi còn rất ấn tượng với các lý thuyết quản lý lao động của Frederick Winslow Taylor ở Hoa Kỳ, chính sách công nghiệp cartel của Đức và vị thế cao của các kỹ sư công nghệ người Đức trong thế giới kinh doanh Đức.[14][13] Kishi được biết đến như một trong những thành viên nổi bật của nhóm "các quan chức cải cách" trong chính phủ Nhật Bản, những người ủng hộ mô hình phát triển kinh tế nhà nước với sự hướng dẫn và chỉ đạo của nhà nước nền kinh tế.[15]

Tham khảo

sửa
  1. ^ 岩見隆夫 (2012). 昭和の妖怪岸信介. 中央公論新社. ISBN 978-4122057234. Tác giả Takao Iwami (dưới bút danh 田尻育三) ban đầu sử dụng biệt danh "Monster of Manchuria" trong "Monster of Manchuria: A Study on Kishi Nobusuke," một bài mà ông viết cho tạp chí Bungei Shunjū (「満州の妖怪―岸信介研究」『文藝春秋』1977年11月号) và một bài viết khác cho cùng tạp chí vào năm sau "A Study on Kishi Nobusuke: The Postwar Period" (「岸信介研究—戦後編」『文藝春秋』1978年7月号), nhưng sau đó khi ông xuất bản cả hai dưới dạng sách vào năm 1979, ông đã đặt tên nó là "Monster of Shōwa". Cả hai cụm từ đều là những phát minh có thể bắt nguồn từ Iwami và không được những người cùng thời với Kishi sử dụng trong sự nghiệp của ông. Trong số hai người, biệt danh thực sự được sử dụng ngày nay là "Quái vật Shōwa".
  2. ^ Kapur 2018, tr. 25.
  3. ^ Kapur 2018, tr. 10.
  4. ^ Samuels 2001.
  5. ^ Kapur 2018, tr. 17-34.
  6. ^ Kitaoka 2016, tr. 98-99.
  7. ^ a b Kitaoka 2016, tr. 98.
  8. ^ Kitaoka 2016, tr. 99.
  9. ^ Haberman 1987.
  10. ^ a b c d e f Kitaoka 2016, tr. 100.
  11. ^ Mimura 2011, tr. 33n79.
  12. ^ a b Mimura 2011, tr. 34.
  13. ^ a b Maiolo 2010, tr. 29-30.
  14. ^ Driscoll 2010, tr. 267-268.
  15. ^ Maiolo 2010, tr. 29.