Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nữ quan”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, general fixes, replaced: “ → ", ” → " using AWB |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
(Không hiển thị 23 phiên bản của 8 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1:
{{Chú thích trong bài|date=Tháng 3/2023}}
'''Nữ quan''' ([[chữ Hán]]: 女官), hay còn gọi '''Nội quan''' (内官), '''Cung quan''' (宮官) hoặc '''Sĩ nữ''' (仕女), là những từ hay dùng để gọi các [[cung nữ]] cao cấp có phẩm trật cùng địa vị trong cung đình các nền quân chủ thuộc [[vùng văn hóa chữ Hán]] là [[Trung Quốc]], [[Nhật Bản]], [[Hàn Quốc]] và [[Việt Nam]].
Hàng 5 ⟶ 6:
Đối với các nền quân chủ dường như chỉ dành cho [[nam giới]], vẫn có một số lượng ít ỏi [[phụ nữ]] xuất hiện, toàn bộ họ đều ở trong nội cung, phụ giúp xung quanh [[Hoàng đế]] hoặc [[Quốc vương]]. Họ có phẩm trật và lương bổng như mệnh nam quan, có nhiệm vụ quản lý hậu cung cung nữ, lại có thể chiếu cố giúp đỡ các [[Hoàng tử]], [[Hoàng nữ]] hoặc [[Vương tử]], [[Vương nữ]] hay thậm chí các [[phi tần]] trong việc giáo dục. Phận sự của họ rất đặc biệt, có hai đặc tính: một là đảm nhiệm chức vụ nội quan thông thường, mặt khác giống như một [[phi tần]], các vị Đế vương có thể sủng hạnh họ và họ trở thành một phi tần chính thức trong cấp bậc.
Ở phương Tây, các nền quân chủ theo [[Cơ Đốc giáo]] cũng có những phận sự tương tự dù bản chất tương đối với biệt nếu so với Đông Á, trong [[tiếng Anh]] họ được gọi bằng những danh xưng như '''
== Lịch sử Đông Á ==
Hàng 22 ⟶ 23:
Tại [[Nhật Bản]], từ [[thời Heian]] đã có chế độ nữ quan được gọi là [[Hậu cung Thập nhị ty]], trong đó lại chia ra '''Nội thị ty''' (內侍司) chuyên gần gũi thị hầu [[Thiên hoàng]], và 11 cơ quan Ty khác lại có nhiệm vụ chưởng quản các vấn đề bên dưới. Họ thường là thành viên của các gia đình quý tộc đưa vào. Về cơ bản, các nữ quan đều phải là những người có học thức và xuất thân cao quý có thế lực.
Suốt thời kì Heian, các nữ quan giữ những chức danh quan trọng phục vụ nhu cầu của Thiên hoàng và các hậu cung. Một trong những điều kiện cần có để trở thành một nữ quan là họ phải biết những kiến thức về [[chữ Hán]] và được giáo dục tốt bởi các kinh thư Trung Hoa, như [[Tứ thư]], [[Ngũ kinh]]<ref name=" Rowley date? page?">{{harvnb|Rowley|p=64|loc=[https://books.google.com.vn/books?redir_esc=y&hl=vi&id=aFJkZj8gqEYC&q=Chinese+classics#v=snippet&q=Chinese%20classics&f=false "A World of Women"]}}</ref>. Các nữ quan thời kỳ này có nhiều cách gọi, trong đó có địa vị '''Nữ phòng''' (女房;
Trong [[Thời kỳ Chiến Quốc (Nhật Bản)|thời kì Sengoku]], vị trí nữ quan trở nên quan trọng hơn khi họ là người trung gian chủ yếu giữa Thiên hoàng và các triều thần, họ quản lý toàn bộ mọi việc trên dưới của nội cung, lên lịch làm việc, viếng thăm và nhận quà cáp cống phẩm. Khác với chế độ nữ quan Trung Hoa tập trung chủ yếu các việc chăm sóc Hoàng đế, các nữ quan của Nhật Bản trở thành người quản lý hậu cung chính thay các [[hoạn quan]]. Nữ quan phục vụ cơ bản chia làm hai loại, loại đầu tiên thì rất thân cận với Thiên hoàng, phụ trách quản lý mọi việc nhu yếu phẩm của Thiên hoàng và có thể trở thành phi tần nếu được sủng hạnh. Ví dụ cho chuyện này là vị trí '''Canh y''' (更衣), đây vốn là chức nữ quan hầu giữ quần áo của Thiên hoàng trong tẩm điện, tầm hàm Tứ phẩm hoặc Ngũ phẩm, dần dần vì vấn đề chức vụ mà thành một địa vị bán chính thức cho các phi tần. Còn loại thứ hai chỉ làm những việc bên ngoài, hoặc phục vụ cho các cung phi<ref name="Lillehoj">{{harvnb|Lillehoj|p=145|loc=[https://books.google.com.vn/books?redir_esc=y&hl=vi&id=-TMVF6kpoqkC&q=palace+attendants#v=snippet&q=palace%20attendants&f=false Roles of Noblewomen in the Early Edo-period court]}}</ref>.
Hàng 29 ⟶ 30:
[[Tập tin:DamPhuong.jpg|thumb|left|205px|Nữ sử [[Đạm Phương]].]]
Trong [[lịch sử Việt Nam]], cũng có một số các nữ quan đi vào lịch sử, bà [[Phạm Thị Trân]] là một nữ [[nghệ sĩ]] thời [[nhà Đinh|Đinh]] và cũng là người phụ nữ đầu tiên được đề cập vai trò "''phụ nữ làm quan''" trong thời đại phong kiến ở Việt Nam<ref name="Chuyên trang Phụ nữ & Đời sống (phunutoday.vn) của báo điện tử nguoiduatin.vn">{{chú thích web|url=http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/tham-cung-bi-su/201205/Nguoi-phu-nu-dau-tien-duoc-phong-lam-quan-2153490/|tiêu đề=Người phụ nữ đầu tiên được phong làm quan|work=Chuyên trang Phụ nữ & Đời sống (phunutoday.vn) của báo điện tử nguoiduatin.vn|tác giả=Lê Thái Dũng|ngày=08-05-2012|ngày truy cập=ngày 15 tháng 4 năm 2013|archive-date = ngày 19 tháng 6 năm 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130619073513/http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/tham-cung-bi-su/201205/Nguoi-phu-nu-dau-tien-duoc-phong-lam-quan-2153490/}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://sankhau.com.vn/news/lich-su-va-dac-diem-nghe-hat-cheo-viet-nam.aspx|tiêu đề=Lịch sử và đặc điểm nghề hát Chèo Việt Nam|ngày=12-01-2013|ngày truy cập=2016-10-14|archive-date = ngày 29 tháng 10 năm 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20161029144203/http://sankhau.com.vn/news/lich-su-va-dac-diem-nghe-hat-cheo-viet-nam.aspx}}</ref>. Từ thời Đinh trở về sau, [[nhà Lý]] và [[nhà Trần]] tư liệu khiếm khuyết nên không có ghi chép rõ ràng về chế độ nữ quan, nhưng trong [[Đại Việt sử ký toàn thư]] vẫn thỉnh thoảng đề cập một vài người phụ nữ được gọi là "Nữ quan", dù vậy Toàn thư cũng không ghi rõ chức vị của họ<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1697|loc=[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt11.html "Trần kỷ・Minh Tông Hoàng đế kỷ"]|ps=: Bấy giờ, Thượng hoàng có ý xuất gia, nên sai cung nhân ăn chay. Các cung nhân đều ngần ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng làm lương ăn tu hành ngày sau. Rồi Thị Diên quả nhiên đi tu cho đến lúc mất, Phật hiệu là Tịnh Quang ni.}}</ref>. Ngoài ra theo câu chuyện về [[Huệ Chân Công chúa]], con gái của Nữ quan Vương thị và [[Trần Anh Tông]], có thể hình dung các nữ quan thời kì này có thể được Vua chúa sủng hạnh và nhận thân phận "''một nửa phi tần''" tương tự Trung Quốc và Nhật Bản{{
Thời [[nhà Hậu Lê|Hậu Lê]], sự tồn tại của nữ quan ngày càng rõ ràng hơn. Thời kỳ này có một nữ quan nổi tiếng là bà [[Nguyễn Thị Lộ]] đời [[Lê Thái Tông]], vốn là thê thiếp của [[Nguyễn Trãi]], sau do được Lê Thái Tông để ý vì tài đức nên đã được giữ chức vụ '''Lễ nghi học sĩ''' (禮儀學士), giúp đỡ giáo huấn các cung nhân. Sau đó, [[Ngô Chi Lan]] đời [[Lê Thánh Tông]] là chị em họ của Hoàng đế, hay vào cung hầu Hoàng đế mỗi dịp tiệc tùng và thi ca, thời bấy giờ bà rất có quyền thế. Vào thời [[nhà Mạc]], có truyền thuyết về bà [[Nguyễn Thị Duệ]] cải nam trang mà đi thi đỗ được [[tiến sĩ]], dù về sau bà bị phát hiện nhưng không bị trừng phạt, mà còn giữ chức vị nữ quan cao cấp để dạy bảo cung nhân. Thời cuối [[Lê trung hưng]], có [[Đoàn Thị Điểm]] nổi tiếng văn thơ cũng từng được triều đình nhà Lê cho vời vào cung để dạy bảo cung nhân. Trong [[phủ chúa Trịnh|phủ chúa]] cũng được ghi nhận vào cung tần có danh xưng nữ quan, như Chính phủ Thị nội cung tần Thượng hòa [[Trương Thị Trong]], Thị nội cung tần [[Trương Thị Viên]], Giáo thụ [[Phan Thị Toán]],... đều là những nữ quan được ghi nhận.
Hàng 46 ⟶ 47:
Trong các quốc gia quân chủ [[Châu Âu]], vai trò tương tự nữ quan có thể kể đến '''Lady-in-waiting''' hoặc '''Court Lady''', có thể dịch theo [[Hán Việt]] như là '''Thị tùng''' (侍從) hay '''Nữ thị''' (女侍), tức ''"Những người hầu gái túc trực và hộ tống"'', họ đều là những người luôn kề cận và có nhiệm vụ tháp tùng các bà Chúa ([[Nữ vương]] và [[Vương hậu]]), hoặc thậm chí là [[Vương nữ]]. Tuy nhiên vai trò của họ khác với khái niệm "''Cung tỳ''" lẫn "''Thị nữ''" của Đông Á, cơ bản ở điểm các "Lady-in-waiting" đều không có thân phận [[nô lệ]].
[[Tập tin:Madame_la_princesse_de_Lamballe_by_Antoine-François_Callet_(circa_1776,_Callet).jpg|thumb|trái|222px|Princesse de Lamballe - một Thị tùng cho Vương hậu [[
Khác với cung đình Đông Á, các vị Vua chúa Châu Âu và vợ mình đều có riêng hệ thống quan hầu được gọi là "'''Household'''", hệ thống này phụ trách tất cả hạng mục dành riêng cho một cá nhân cụ thể, trong đó bao gồm việc điều phối tài chính, hộ vệ và sau cùng là vấn đề sinh hoạt riêng tư trong buồng ngủ{{
Từ thời đại [[Đế chế Carolus]] còn hưng thịnh vào [[thế kỉ 9]], nhà thần học [[Hincmar]] đã mô tả cung đình [[Charles Hói]] trong cuốn ''[[De Ordine Palatii]]'', các triều thần đều được chi phối bởi nhà Vua cùng vợ mình. Khoảng [[thế kỉ 12]], các Vương hậu nước Pháp đã xuất hiện những đoàn tùy tùng của riêng mình, trong đó cơ số Thị tùng đều là nữ giới quý tộc, hình thành khái niệm ''"Lady-in-waiting"'' trong văn hóa phương Tây. Thời kỳ này, khái niệm về ''"Lady-in-waiting"'' chỉ giới hạn ở thân phận cô hầu phụ việc. Sang [[thời kỳ Phục hưng]], vai trò của phụ nữ được nhìn nhận khác đi, nên các "cô hầu" này cũng đột ngột có sự thay đổi trong cơ chế xã hội, vai trò ''"tháp tùng chủ nhân"'' của họ càng được đề cao. Triều đình của [[Công quốc
Vai trò của các "Lady-in-waiting" tại triều đình Châu Âu nếu so với Đông Á thì có sự khác biệt đáng kể, điều này cũng vì hệ thống giai cấp chủ nô tại Châu Âu không tương đồng. Điểm đáng chú ý nhất về các "Lady-in-waiting" chính là họ đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, ngoại quốc hoặc bản địa, chuyên phục vụ như một [[người bạn]] cho các bà chủ dòng dõi Vua chúa, chứ không phải như một [[nô lệ]]. Xuất thân của họ tuy yêu cầu phải thấp hơn bà chủ nhưng thân phận xã hội không bị hạ thấp, do đó họ như kiểu [[thư ký]].
Dĩ nhiên trong đoàn tháp tùng của các bà Chúa vẫn có những nữ phục vụ đúng nghĩa, chuyên hầu hạ những việc tay chân, và họ được gọi là ''[[Domestic worker]]'' hoặc "'''Chambermaid'''", ứng với khái niệm '''Nữ dung''' (女傭). Tuy nhiên trong thực tế, tầng lớp "''Chambermaid''" này tuy mang nghĩa phục vụ nhưng lại có thân phận tự do, việc phục vụ của họ thiên về [[công việc]] hơn là nghĩa vụ{{
Vấn đề lương bổng của thị tùng tại Châu Âu gọi là "''Salary''" hay "''Wage''", đôi khi không bắt buộc bởi vì phần lớn bọn họ có gia cảnh quý tộc hoặc có chồng là quan chức lớn trong triều, tuy nhiên cũng có khá nhiều triều đình vì đảm bảo uy vọng mà cũng quy định chi phí hằng năm cho thị tùng giống quan viên phục vụ Quốc vương<ref name = "Thoms"/>. Chế độ nhận lương thường là trả bằng [[hiện kim]]<ref name ="Weir"/>. Ngoài ra, cũng có triều đình quy định về điều khoản về phí trợ cấp (tiếng Anh gọi là "''pension''"), mà đối tượng nhận những khoản định này phần nhiều là những người có hoàn cảnh góa bụa hoặc được bà chủ đặc biệt yêu thích<ref name = "RO">{{harvp|Bucholz|2006}}</ref>.
Hàng 133 ⟶ 134:
* '''Nội thị ty''' (内侍司) hoặc '''Thượng thị sở''' (尚侍所): cơ quan thân cận nhất của Thiên hoàng, quản việc cung phụng hầu trực, tấu thỉnh, tuyên truyền, thẩm tra đối chiếu Nữ nhụ và kiểm soát Mệnh phụ vào cung triều bái. Đồng thời, cơ quan này còn phụ trách quản giáo và điều phối các nghi lễ trong cấm nội, chiếc gương "''Yata no Kagami''" (''Bát Chỉ Kính''; 八咫鏡) - một trong [[Tam chủng thần khí]] cũng do Nội thị ti phụ trách bảo quản. Nữ quan thuộc Ty này gồm:
** ''Thượng thị'' (尚侍; ないしのかみ), 2 người, hàm Tòng tam phẩm hoặc Tòng ngũ phẩm. Trưởng quan phụ trách quản lý Hậu cung thập nhị ty, giống như [[bí thư]] trưởng của riêng Thiên hoàng. Luôn tuyển con gái Công khanh chưa lập gia đình hoặc chính thê của Công khanh để sung nhậm. Bởi vì thường xuyên ở trước mặt Thiên hoàng, chức vị này dần về sau liền trở thành một thân phận phi tần của Thiên hoàng.
** ''Điển thị'' (典侍; ないしのすけ), có 4 người, hàm Tòng tứ phẩm hoặc Tòng lục phẩm. Là Thứ quan của Ty, phụ tá giúp việc cho Thượng thị, sau khi Thượng thị trở thành danh vị cho phi tần thì Điển thị trở thành nữ quan cao nhất của Nội thị ty. Nhưng dần về sau, Điển thị cũng bị tình trạng ''"Thị thiếp hóa"'' như Thượng thị, cuối cùng cũng thành danh xưng cho các phi tần. Suốt thời Edo, Điển thị thường xuyên là danh phận phi tần thuộc hàng cao nhất sau "''Nữ ngự''" (女御){{
** ''Chưởng thị'' (掌侍; ないしのじょう), 2 người, hàm Tòng ngũ phẩm đến Tòng thất phẩm. Vốn là Phán quan của Ty, sau khi Điển thị cũng trở thành danh phận phi tần, Chưởng thị trở thành chức quan cao nhất Nội thị ty.
** Cuối cùng là các "''Nữ nhụ''" giúp việc trong Ty, khoảng 100 người.
Hàng 152 ⟶ 153:
Ngoài ra, còn có một số chức vụ khác như:
* '''Ngự Hạp điện Biệt đương''' (御匣殿別当; みくしげとののべっとう), chức Trưởng quan của ''Ngự Hạp điện'' (''みくしげどの''), cơ quan chính bán chính thức của Thập nhị ty, chuyên trông nom phục sức của Thiên hoàng. Cũng như "Thượng thị" và "Điển thị", chức quan này cũng dần trở thành một chuyên danh dùng cho phi tần, thường do những người được Thiên hoàng ân sủng đảm nhiệm.
* '''Nữ tàng nhân''' (女蔵人; にょくろうど), một dạng nữ phòng hạ cấp, không rõ vai trò cụ thể. Chức vụ này được cho là một biến thể của chức "[[:zh:藏人 (官職)|Tàng nhân]]" - một chức quan dành cho nam giới rất cao cấp được quyền đi lại trong nội cung<ref>{{Chú thích web|url=https://kotobank.jp/word/%E5%A5%B3%E8%94%B5%E4%BA%BA-593401|title = 女蔵人|publisher=[[Daijisen]]|language=
Hậu cung của Thiên hoàng cấm cản nam giới tùy tiện ra vào, vì thế Thập nhị ty lúc này có địa vị rất cao vì họ là những người kề cận Thiên hoàng nhất, do đó không ít Công khanh cố gắn đưa vợ hoặc con gái của mình đảm nhiệm các chức vụ trong những Ty thường xuyên tiếp xúc Thiên hoàng, như Nội thị ty hoặc Thiện ty. Từ [[thời Nara]], triều đình bắt đầu thiết đặt vai trò mới của Nội thị ty, họ chuyên phụ trách liên lạc giữa quan viên và Thiên hoàng trong cấm cung, do đó chức vụ Thượng thị thường trở thành "cầu nối" giữa quan viên khi muốn tiếp cận Thiên hoàng, cũng từ đó Thượng thị cũng trở thành mục tiêu tranh chấp giữa các phe phái, hòng có thể cài người của mình gần với Thiên hoàng nhất, sự biện [[Biến cố Kusuko]] chính là một ví dụ cho tầm ảnh hưởng của một Thượng thị. Từ [[thời Heian]], triều đình bắt đầu thiết đặt chức '''Tàng nhân''' (藏人; くろうど) có đặc quyền ra vào hậu cung để liên lạc Thiên hoàng, sự xuất hiện của chức vụ này đã khiến vai trò của Thập nhị ty dần bị giảm xuống. [[Thế kỉ 10]] trở đi, chức vụ của 11 Ty đã bị Nội thị ty hấp thu triệt để, chỉ còn Nội thị ty độc chiếm công việc của toàn bộ 12 Ty trước đó. Bên cạnh đó đi theo tác động chính trị, quyền lợi của Thiên hoàng dần giảm xuống, Nội thị ty cũng liên kết qua lại với chế độ [[Sesshō và Kampaku]].
Vào [[thời Edo]], trong hoàng cung đem nữ quan chia ra làm hai khái niệm khác biệt là '''Nữ phòng''' (女房) và '''Nữ trung''' (女中), đều lấy việc gần gũi Thiên hoàng mà phân cao thấp tương quan, trong đó các nữ phòng lại có 2 mức với 3 cấp khác nhau, phân biệt là '''Ngự cục''' (御局) và '''Ngự hạ''' (御下). Mức hạng "Ngự cục" là tên của ba cấp quan viên trong Nội thị ty, tức "''Thượng thị''"・"''Điển thị''"・"''Chưởng thị''", họ có thể diện kiến và hầu chuyện
Hiện tại [[Cơ quan nội chính Hoàng gia Nhật Bản]] đã đổi cơ cấu chức vụ của nữ quan, trong đó có:
Hàng 170 ⟶ 171:
==== Áo nữ trung ====
{{Xem thêm|Ōoku}}
Thời kỳ [[Mạc phủ Tokugawa]], nội cung [[thành Edo]] được biết đến với tên gọi [[Ōoku]] (''Đại áo'', 大奥; おおおく), một xã hội thu nhỏ tập hợp hơn một ngàn người phụ nữ, được thành lập bởi [[Shōgun|Tướng quân]] [[Tokugawa Hidetada]]. Trong Ōoku, ngoài bản thân Tướng quân, thì người vợ chính thất của Tướng quân được gọi là [[Ngự đài sở]], mẹ cả ("Đích mẫu"), mẹ ruột ("Sinh mẫu") cùng các thiếp ("Trắc thất") là những đối tượng được phục vụ. Những người hầu kẻ hạ phục vụ gia đình Tướng quân gọi chung là '''Áo nữ trung''' (奥女中, おくじょちゅう) hoặc '''Ngự điện Nữ trung''' (御殿女中; ごてんじょちゅう){{
Những tổng quản hầu hạ gia đình Tướng quân có trách nhiệm quản lý các công việc lớn nhỏ trong Ōoku, giữa các tổng quản cũng phân chia thứ bậc. Thời kỳ Edo có chia tầng lớp rất phức tạp, các gia tộc [[Samurai]] (''Võ sĩ''; 武士) tuy là chủ chốt nhưng cơ bản có hai hạng nhất định, lấy việc gần gũi Tướng quân làm thước đo. Có được tư cách trực tiếp yết kiến Tướng quân được gọi là '''Ngự mục kiến''' (御目見; おめみえ), hầu hết các quý tộc địa phương [[Daimyō]] (''Đại danh''; 大名) đều có tư cách này, mà các gia tộc samurai lại thường bị chia ra chặt chẽ, tầng lớp có tư cách này được gọi là [[Hatamoto]] (''Kỳ bổn''; 旗本), còn không có tư cách chính là [[Gokenin]] (''Ngự gia nhân''; 御家人). Căn cứ theo tư duy này, nữ trung của Ōoku cũng được chia làm 3 dạng<ref name = "Tadashi">{{harvp|Tadashi Tsuda|2009}}</ref>:
# '''Ngự mục kiến dĩ thượng''' (御目見以上; オメミエイジョウ<sup>Omemieijou</sup>): những người có tư cách gặp trực diện Tướng quân;
# '''Ngự mục kiến dĩ hạ''' (御目見以下; オメミエイカ<sup>Omemieika</sup>): không có tư cách tham kiến Tướng quân;
# '''Bộ phòng phương''' (部屋方; へやがた<sup>Heyagata</sup>): chỉ có thể quanh quẩn trong "''Trưởng cục hướng''" (長局向){{
Thời kỳ toàn thịnh, cả Ōoku có hơn 1.000 người phụ nữ. Khi các gia đình samurai, thương nhân hoặc nông dân muốn đưa người vào Ōoku, thì các cô gái này cần đệ trình một loại giấy thề độc sẽ không tiết lộ những gì nhìn thấy hoặc nghe được trong khi phục vụ ở đây. Xã hội Ōoku có chế độ thoát ly như công sở hiện đại, những vị nữ trung khi phục vụ trên 3 năm thì liền có chế độ cho phép ngày nghỉ, bắt đầu là 6 ngày, trên 6 năm thì 12 ngày, từ 9 năm thì có 16 ngày, những khi cha mẹ qua đời thì cũng có thể đặc biệt xin ra để tang viếng<ref name = "Tadashi"/>. Những vị nữ trung cao cấp khi tháp tùng các Ngự đài sở đến thăm viếng "''Khoan Vĩnh tự''" (寛永寺; かんえいじ) và "''Tăng Thượng tự''" (增上寺; ぞうじょうじ), hoặc được phái đi đến thăm nhà Daimyō, thì cũng có thể tự do xem ca hát.
Rất nhiều gia tộc samurai và thương nhân xem trọng việc đưa con gái của mình vào Ōoku, dù chỉ là hạng tạp dịch cấp thấp, thế nhưng có lịch sử từng ở trong
; Ngự mục kiến dĩ thượng
Hàng 185 ⟶ 186:
:Xưng hô chính thức là '''Thượng lạp Niên ký''' (上臈年寄), đều xuất thân từ giới quý tộc [[Kuge]] (''Công gia''; 公家) tại kinh đô [[Kyoto]], là người có xuất thân và địa vị lớn nhất trong nhóm Áo nữ trung. Phần nhiều con gái quan viên trung cấp của triều đình Kyoto, vốn là thân phận thị nữ bồi giá đi theo các Ngự đài sở đến Ōoku, thường có 3 người<ref name = "Tadashi"/>. Về bổn phận, họ chịu trách nhiệm bảo trợ, cố vấn cũng như đảm nhiệm việc lễ nghi sinh hoạt cho Ngự đài sở, đôi khi còn là cố vấn chính trị cho bản thân các Tướng quân và phụ trách chính việc tổ chức nghi thức trong Ōoku. Vì xuất thân "Kuge" đại diện triều đình, các Thượng lạp Niên ký thường đối đầu với các Ngự niên ký xuất thân "Hatamoto" đại diện thế lực Mạc phủ<ref>{{Chú thích sách|url=https://www.amazon.co.jp/%E3%80%8C%E5%A4%A7%E5%A5%A5%E3%81%AE%E8%AC%8E%E3%80%8D%E3%82%92%E8%A7%A3%E3%81%8F-PHP%E6%96%87%E5%BA%AB-%E4%B8%AD%E6%B1%9F-%E5%85%8B%E5%B7%B1/dp/4569666752|title = Ōoku no nazo (大奥の謎)|author = Nakae Katsumi (中江 克己)|date=2 tháng 9 năm 2006}}</ref>. Mặc dù trên danh nghĩa chức vụ này có quyền lực rất cao, nhưng trên thực tế không có thực quyền nhiều bằng Ngự niên ký.
* '''Ngự niên ký''' (御年寄; おとしより<sup>Otoshiyori</sup>)
:Xuất thân từ tầng lớp samurai thượng cấp "Hatamoto", người có quyền lực tối cao tại Ōoku, phụ trách quản lý mọi thứ trong Ōoku, do đó phim truyện hiện đại Nhật Bản cũng gọi những người này là '''Đại áo Tổng thủ đế''' (大奧總取締){{
* '''Ngự trung lạp''' (御中臈; おちゅうろう<sup>Ochūrō</sup>)
:Nữ quan phục vụ thân cận của Ngự đài sở và Tướng quân. Được tuyển chọn dựa vào tài cán và đức độ, không cân nhắc thân phận hàng đầu. Rất nhiều trắc thất của các đời Tướng quân đều từ vị trí này làm bàn đạp. Đảm nhiệm công tác dựa vào 3 lượt phân ban, có "''Xuất phiên''" (出番), "''Ngự tụ''" (御袖) và "''Phi phiên''" (非番). Trong đó "Xuất phiên" chia làm 2 đợt: từ 10 giờ sáng (''Triều tứ hạ''; 朝四下) đến "Chính ngọ" giữa trưa hoặc đến 2 giờ chiều (''Trú bát hạ''; 昼八下), đợt thứ hai là từ tối đến sáng sớm hôm sau. Còn phiên "Ngự tụ" là từ "Trú bát hạ" đến sáng hôm sau, mà phiên "Phi phiên" là thường trực lúc Tướng quân nghỉ ngơi<ref name = "Tadashi"/>.
Hàng 191 ⟶ 192:
Các chức vụ khác:
* ''Trung niên ký'' (中年寄; ちゅうどしより<sup>Chūdoshiyori</sup>): đại diện kiêm phụ tá của Ngự niên ký.
* ''Ngự khách ứng đáp'' (御客應答, おきゃくあしらい<sup>Okyakuashirai</sup>): phụ trách tiếp đãi các nữ quyến thuộc các dòng nhánh lớn của gia tộc Tokugawa là "''Ngự tam gia''" (御三家; ごさんけ) và "''Ngự tam khanh''" (御三卿; ごさんきょう){{
* ''Ngự phường chủ'' (御坊主; おぼうず<sup>Obōzu</sup>): phụ trách chuẩn bị vật tùy thân cho Tướng quân, là thành phần nữ trung duy nhất có thể đi lại giữa Đại áo ("Ōoku"), Trung áo ("Nakaoku") và Biểu gian ("Omotemuki"){{
* ''Ngự đĩnh khẩu'' (御錠口; おじょうぐち<sup>Ojōguchi</sup>): canh giữ cửa lớn "''Ngự linh lang''" (御鈴廊; hay còn gọi ''Thượng chi Ngự đĩnh khẩu'' 上之御鈴口) - là chính môn tại Ōoku, nối giữa "Đại áo" và "Trung áo" (nơi ở của Tướng quân). Ngoài ra họ cũng phụ trách "''Hạ chi Ngự đĩnh khẩu''" (下之御錠口) - thông đạo thoát hiểm phòng khi hỏa hoạn, đôi khi còn có vai trò truyền đạt thông tin từ "Trung áo", cần 2 người phiên trực<ref name = "Tadashi"/>.
* ''Ngự tiểu tính'' (御小姓; おこしょう<sup>Okoshō</sup>): các thiếu nữ độ tuổi từ 7 tới 16 tuổi hầu cận Tướng quân và Ngự đài sở. Họ đều xuất thân từ các gia đình samurai từ tầng lớp "Hatamoto", có cơ hội lớn được tuyển chọn làm Ngự trung lạp. Đến khi 13 tuổi, sau khi trải qua lễ thành niên [[Genbuku]] (''Nguyên phục''; 元服) thì họ sẽ được gọi là ''Nguyên phục tiểu tính'' (元服小姓; げんぷくこしょう<sup>Genpuku koshō</sup>).
Hàng 207 ⟶ 208:
* ''Hỏa chi phiên'' (火之番; ひのばん<sup>Hinoban</sup>): phụ trách phòng cháy, kiêm tham gia biểu diễn.
* ''Ngự trà chi gian'' (御茶之間; おちゃのま<sup>Ochanoma</sup>): phụ trách bưng trà dâng cho Ngự đài sở sau khi ăn.
* ''Ngự sử phiên'' (御使番; おつかいばん<sup>Otsukaiban</sup>): phụ trách đóng mở "''Ngự quảng phu ngự đĩnh khẩu''"{{
* ''Ngự mạt'' (御末; おすえ<sup>Osue</sup>): cũng gọi ''Ngự bán hạ'' (御半下; おはした<sup>Owashita</sup>), thân phận thấp nhất trong Ōoku, thường lấy con gái nhà samurai tầng lớp "Gokenin" sung nhậm. Phụ trách làm đủ loại chuyện tạp dịch như nhân sự ở các phòng ban, phụ trách gánh nước cho nhà tắm và nhà bếp, làm phu dịch cho [[Kago]] (''Giá lung''; 駕籠).
Còn có hạng "'''Bộ phòng phương'''" là những người trực tiếp đi theo làm công cho các Áo nữ trung cao cấp, có thể nói bọn họ là "Nữ trung của các nữ trung" trong xã hội Ōoku, nên cũng được gọi '''Hựu giả''' (又者; マタモノ<sup>Matamono</sup>). Hạng này đại khái có nhiều danh phận như ''Ngự khuyển tử cung'' (御犬子供; おいぬこども<sup>Oinukodomo</sup>), một vị trí chạy chân tạp dịch, phần nhiều tuyển con gái tầng lớp thương nhân ("''Đinh nhân''"; 町人), từ 16 tuổi làm công tác đến tầm 23 tuổi<ref>{{Chú thích web|url=https://kotobank.jp/word/%E5%BE%A1%E7%8A%AC%E5%AD%90%E4%BE%9B-448552|title= Ngự khuyển tử cung (御犬子供)|publisher= Seisen-ban Nihonkokugodaijiten (精選版 日本国語大辞典)|language=
===Việt Nam===
Hàng 234 ⟶ 235:
# '''Mạt đẳng''' (末等), tức ''Bậc cuối'', có chức ''Mục'' (目; tương đương ''Trưởng ban'') của các ban và ''Cung nô Đầu mục'' (宮奴頭目).
Trong Hội điển cũng ghi lại, quản lý mọi việc là bậc Thủ đẳng, thâu tóm mọi việc là bậc Thứ đẳng, thừa hành mọi việc là bậc Trung đẳng, còn Á đẳng trở xuống là lệ thuộc trực tiếp trong phạm vi mỗi ban, các ban đều có lịch trình riêng phân biệt nhau, gồm 8 ban là: ''ban Thiều Quang'', ''ban Thuỵ Nhật'', ''ban Kim Hoa'', ''ban Hương Cẩm'', ''ban Tường Loan'', ''ban Nghi Phượng'', ''ban Tiên Quế'' và ''ban Ngọc Mai''. Vào lúc này thì từ bậc Thủ đẳng đến bậc Hạ đẳng, khi sách phong đều ban cáo sắc bằng giấy Long tiên trục
Năm [[Thiệu Trị]] thứ 3 ([[1843]]), Vua Hiến Tổ cho dụ đổi cách gọi Lục thượng ty thành ''Lục thượng viện'' (六尚院), lại cho đặt thêm các cơ quan nhỏ trong Lục thượng để cai quản tỉ mỉ và trực tiếp hơn so với khi trước. Hoàn thiện thêm chế độ Lục thượng gồm:
Hàng 290 ⟶ 291:
=== Châu Âu ===
Chế độ Thị tùng ("Lady-in-waiting") của Châu Âu phức tạp hay đơn giản cũng tùy thuộc vào thiết đặt của từng quốc gia. Các thị tùng được phân vào một "hệ thống" cụ thể thì đều có bà chủ là Nữ chúa{{
[[Tập tin:Sarah_Churchill_Duchess.jpg|thumb|phải|222px|[[Sarah Churchill, Duchess of Marlborough|Sarah Churchill, Bà Công tước xứ Marlborough]] - từng là "''Mistress of the Robes''" cho [[Anne
Triều đình [[Vương quốc Liên hiệp Anh]] hiện tại có các phân bậc được hình thành cơ bản từ thời kỳ [[nhà Tudor]] và được duy trì y hệt đến hiện tại về cơ bản, cụ thể bao gồm<ref name = "Thoms">{{harvp|Thoms|1844|p=345-351}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.britannica.com/topic/Royal-Household-of-the-United-Kingdom/The-Royal-Household-in-the-modern-era|title="The Royal Household In The Modern Era"|author=The Editors of Encyclopaedia Britannica|language=
* '''Mistress of the Robes'''
:Đứng đầu đoàn thể thị tùng chính thức của vương thất. Như tên gọi, họ phụ trách bảo quản tủ trang sức và tủ quần áo của bà chủ, chủ yếu là các loại Áo bào (gọi là "''Robe''") và Mũ miện (gồm "''Crown''", "''Diadem''" và "''Tiara''"). Trong lễ đăng quang của Nữ vương và Vương hậu, chức vị này có nhiêm vụ nâng áo bào diễu hành, đồng thời còn kiêm vai trò chỉ đạo và điều phối các thị tùng khác. Trong [[thế kỉ 17]] và [[thế kỉ 18]], chức vị này thường bị thay thế hoặc bị kiêm nhiệm bởi các "First Lady of the Bedchamber".
* '''First Lady of the Bedchamber'''
:Đứng đầu nhóm thị tùng thân cận nhất của một nữ chủ được gọi là '''Lady of the Bedchamber'''. Xuất thân của họ đều phải là nữ quyến trong một gia đình đại quý tộc, là vợ hoặc góa phụ của Công khanh quý tộc có tước vị từ [[Bá tước]] trở lên. Nhóm vị trí này tương ứng với [[Lord of the Bedchamber|"Lord of the Bedchamber"]] của Quốc vương, họ sẽ phụ trách việc mặc đồ, phục vụ bánh trái và những công việc hết sức thân cận của chủ nhân, do đó có địa vị rất cao trong triều. Trong thế kỉ 17 và thế kỉ 18, vì các "Lord" kiêm công việc của [[Groom of the Stool|"Groom of the Stool"]] - những người phụ trách bảo quản tủ đồ dùng và Áo bào của Quốc vương, nên khi vị Vua chúa là nữ thì vai trò của các "Groom" sẽ được chuyển cho các các "First Lady", và khi [[Anne
* '''Woman of the Bedchamber'''
:Một nhóm thị tùng xuất thân đều phải là con gái của quý tộc được gọi là '''Peer''' - tức các Công khanh quý tộc nói chung, những người có tước vị truyền đời chính thức. Thông thường xuất thân của họ đều kém các thị tùng thuộc "''Lady of the Bedchamber''", mặc dù công việc của họ giống nhau: phục vụ nữ chủ nhân những việc riêng tư thân cận như thay quần áo và các sinh hoạt thường thức như phục vụ ăn uống, bưng bê bánh trái cùng chuyển tải thư tín. Căn cứ mô tả của Lady Masham vào năm 1728 khi phục vụ [[Anne
* '''Maid of Honour'''
:Trong tiếng Anh thì danh từ "Maid" đều chỉ đến các thiếu nữ trẻ và chưa chồng, do đó họ đa phần đều là thiếu nữ chưa kết hôn. Xuất thân của họ thông thường không cần quá cao, từ [[thế kỉ 18]] họ đều được hưởng kính xưng "''The Honourable''" đến hết đời<ref>{{Chú thích web|url=https://www.britannica.com/topic/The-Honourable|title="The Honourable"|author=The Editors of Encyclopaedia Britannica|language=
[[Thời Trung cổ]] ở nước Anh lần đầu ghi nhận [[
[[Tập tin:Marie_de_Rohan_Chevreuse.png|thumb|trái|215px|[[Marie de Rohan]] - người giữ chức vụ "''Surintendante''" dưới thời kỳ [[
Chế độ thị tùng của [[Vương quốc Pháp]] bị ảnh hưởng từ triều đình [[Công quốc
Việc phát triển này thường được nhìn nhận do [[Anne
Chức vụ các thị tùng của triều đình Pháp, qua nhiều thời gian tạo ra hoặc chỉnh sửa, bao gồm:
Hàng 349 ⟶ 350:
== Chú thích ==
{{notelist|2}}
==Tham khảo==
{{tham khảo|
== Nguồn tham khảo ==
{{refbegin|2}}
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E7%A6%AE%E8%A8%98|title = Lễ ký|last=Hậu sinh Khổng Tử
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%91%A8%E7%A6%AE|title = Chu lễ|last=Chu Công
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E4%B8%89%E5%9C%8B%E5%BF%97|title = Tống thư|last=Thẩm Ước
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E9%AD%8F%E6%9B%B8|title = Ngụy thư|last=Ngụy Thu
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E9%9A%8B%E6%9B%B8|title = Tùy thư|last=Ngụy Trưng
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E8%88%8A%E5%94%90%E6%9B%B8|title = Cựu Đường thư|last=Lưu Hu
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%96%B0%E5%94%90%E6%9B%B8|title = Tân Đường thư|last=Âu Dương Tu, Tống Kỳ
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%98%8E%E5%8F%B2|title = Minh sử|last=Trương Đình Ngọc
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikisource.org/wiki/%E8%90%AC%E6%9B%86%E9%87%8E%E7%8D%B2%E7%B7%A8|title=Vạn Lịch dã hoạch biên|last=Thẩm Đức Phù|year=1619
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%8F%A4%E4%BB%8A%E5%9B%BE%E4%B9%A6%E9%9B%86%E6%88%90|title=Cổ kim đồ thư tập thành|last=Trần Mộng Lôi|last2=Tưởng Đình Tích|year=1725
* {{Chú thích sách|url=https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&res=395680|title=Toàn sử cung từ|last=Sử Mộng Lan
* {{Chú thích sách|url=https://ctext.org/shuo-wen-jie-zi/zh|title = Thuyết văn giải tự|last=Hứa Thận
* {{Chú thích sách|url=https://ctext.org/kangxi-zidian/zh|title = Khang Hi từ điển|last=Khang Hi|year=1716
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books/about/Above_the_Clouds.html?id=UudGTW6nK2AC&redir_esc=y|last=Lillehoj|first=Elizabeth|title= Art and Palace Politics in Early Modern Japan, 1580s–1680s
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books/about/An_Imperial_Concubine_s_Tale.html?id=aFJkZj8gqEYC&redir_esc=y|last=Rowley|first=G. G.|title=An Imperial Concubine's Tale: Scandal, Shipwreck, and Salvation in Seventeenth-Century Japan
* {{Chú thích web|url=https://kotobank.jp/word/%E5%A5%B3%E6%88%BF-110666|title = Nữ phòng (女房)|last=Britannica International Encyclopedia
* {{Chú thích sách|url=https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_s%E1%BB%AD_k%C3%BD_to%C3%A0n_th%C6%B0|title = Đại Việt sử ký toàn thư|last= Ngô Sĩ Liên|year=1697
* {{Chú thích web|url=https://www.british-history.ac.uk/office-holders/vol11/pp24-25|title=The bedchamber: Women of the Bedchamber 1702-1714|publisher=Đại học London|year=2006|last=Bucholz|first=Robert O
* {{Chú thích web|url=https://erenow.net/biographies/elizabethofyork/|title = Elizabeth of York: A Tudor Queen and Her World|last=Weir|first=Alison|year=2013|publisher=NEW YORK TIMES
* {{Chú thích sách|url=https://archive.org/stream/bookofcourtexhib00thom#page/348/mode/2up|title = The Book of the Court: Exhibiting the History, Duties, and Privileges of the English Nobility and Gentry. Particularly of the Great Officers of State and Members of the Royal Household|first=William J.|last=Thoms|year=1844|edition=
* {{Chú thích sách|url=https://zh.wikipedia.org/wiki/%E9%A4%8A%E8%80%81%E5%BE%8B%E4%BB%A4|title = Yōrō Code (養老律令)|last= Fujiwara no Fuhito|year=718
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books/about/%E8%BF%91%E4%B8%96%E3%81%AE%E6%9C%9D%E5%BB%B7%E3%81%A8%E5%A5%B3%E5%AE%98%E5%88%B6%E5%BA%A6.html?id=5udpQgAACAAJ&redir_esc=y|title = Kinsei no Chōtei to jokan seido (近世の朝廷と女官制度)|last= Hiroshi Takahashi|year=2009|publisher= Yoshikawa Kobunkan (吉川弘文館)
* {{Chú thích sách|url=https://www.books.com.tw/products/0010455442|title = Đồ thuyết Đại Áo (圖說大奧)|last= Tadashi Tsuda|year=2009|publisher= Đài Loan đông phiến (台灣東販)
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books/about/The_Politics_of_Female_Households.html?id=xaTWAQAAQBAJ&redir_esc=y|title = The Politics of Female Households: Ladies-in-waiting across Early Modern Europe|last1=Nadine Akkerman|last2=Birgit Houben|year=2013|edition=
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books/about/Vienna_and_Versailles.html?id=LORFDFxqCI8C&redir_esc=y|last=Jeroen Duindam|title=Vienna and Versailles: The Courts of Europe's Dynastic Rivals, 1550-1780|year=2003|edition=
* {{Chú thích web|url=https://cour-de-france.fr/histoire-et-fonction/maisons-services-et-charges/etudes-modernes/article/the-household-of-the-queen-of-france-in-the-sixteenth?lang=fr|title="The Household of the Queen of France in the Sixteenth Century"|last=Kolk|first=Caroline zum|year=2009|language=
{{refend}}
|